Lòng
ta sông núi bạt ngàn mênh mông
Đêm khuya khoắt Hoàng Hạc ngủ tự bao giờ không hay biết, sáng sớm thức dậy thoải mái nhờ không khí trong lành, ông ra sảnh đường thì thấy trên bàn đã có một bộ kỷ trà chung thanh ngọc, bình trà đang bốc khói từ xa phảng phất mùi thơm Trúc Thanh rất dịu, một khay khác cũng bằng thanh ngọc rất mỏng manh, chén bằng thúy ngọc, trên khay áng chừng mươi bánh bao nóng hổi, đũa bằng bạch ngọc hồ, bát đĩa mỏng như vỏ trứng gà, nếu đụng nhẹ vào sẽ vang lên tiếng ngân của cái chuông lật ngửa và một bồn nước rửa tay cũng thúy ngọc hồ, phần trên bồn có hai chiếc khăn màu trắng.
Buổi điểm tâm thịnh soạn quả là Hoàng Đế cũng không bằng, ông suy nghĩ:– Ở dãy núi Thất Long trùng trùng, điệp điệp mà có bánh bao cũng lạ. Vừa lúc Hoàng Phi Bằng đi vào thưa :
― Kính mời Nội tổ, đại huynh cùng dùng điểm tâm cho hết phần bánh này.
Hoàng Hạc suy nghĩ tiếp:– Từ ngày đại hội Phiên Ngung thành, nay gặp lại Hoàng Phi Bằng thấy toàn là những sự ngạc nhiên, bất ngờ như một giấc mộng đêm xuân tuyệt đẹp. Hiện nay lời của Hoàng Phi Bằng là sự thực hay không thể biết trước sự thực, kể cả hành động, tuy nhiên vẫn tự tin trong buổi điểm tâm sáng nay, mỗ đã thấy được những vật dụng toàn là bằng ngọc đủ chứng minh tính hiện thực của Phi Bằng.
Hoàng Hạc thoáng nhìn Hoàng Phi Bằng, rồi hỏi :
― Điệt nhi, Nội tổ đã quyết định nhận trách nhiệm và thực hiện nguyện vọng của Phi Bằng nhi.
Hoàng Phi Bằng vui mừng nhếch mép nở một nụ cười thưa :
― Điệt nhi đa tạ Nội tổ, xin Nội tổ chuẩn bị khấn vái tạ ơn, trước khi bước vào kho tàng Bách Việt.
Hoàng Hoạc suy nghĩ liên miên:– Phi Bằng tuy còn nhỏ mà lòng nghĩa khí nhất thuần, trời phú cho cá tính khoan hòa không duy lợi, và thông minh. Hoàng Phi Khải thì bao dung, thực thà, chân chất cho nên lòng người không duy danh, hai huynh đệ này biết phân biệt người chơn kẻ giả, quả thực con cái nhà Chỉnh có cốt tố khác người, như mấy tháng trước đã trừ khử được tám mươi bốn loạn thần, sau đó Nam Việt Vũ Đế ban ân sủng cho Hoàng Phi Bằng, thế mà nó cũng từ chối không nhận một phẩm quyền nào cả, luôn cả việc sử lý thúc phụ của nó là Hoàng Phi Cương cũng theo phép chuyện nhà, việc nước quyết đoán phân minh, làm người có mấy ai phong cao lượng tiết. Nay thời Hoàng Phi Bằng có cả một kho tàng vô tận cũng không lấy đó làm hưởng thụ, nó dâng hiến cho Bách Việt. Trước khi lên kho tàng Hoàng Phi Bằng đóng cửa Đông động lại, rồi cả ba ông cháu phi thân. Hoàng Hạc đến nơi liền hành lễ khấn vái :
― Tại hạ họ Hoàng tên Hạc, con dân Bách Việt tôn tộc Lạc Việt tiên tổ Quế Lâm, hứa với tổ tiên cùng thiêng liêng chứng giám lòng chung thủy bảo mật kho tàng Bách Việt, sử dụng vì sơn hà xã tắc, không riêng tư một hạt bụi nào trong kho tàng này, nếu có lòng hai thì đấng trời cao, đứng chứng đọa đày cả họ Hoàng tại hạ đời đời, kiếp kiếp không có một hạt ngũ cốc nào để ăn.
Hoàng Phi Bằng nghe Nội tổ lòng nhân đức chơn thực, chàng suy nghĩ:– Đúng là bậc hiền tài trọng nhân phẩm nuôi chí khí để sinh tồn Bách Việt, nhưng Nội tổ có lời thề quá độc.
Hoàng Phi Bằng mở cửa kho tàng hai ông cháu vào trong, rồi đóng cửa lại, khi Hoàng Hạc vào kho tàng thấy ngọc ngà châu báu, ngân kim, quả thực là một kho tàng vô tận, ông không ngờ Hoàng Phi được tổ tiên Bách Việt giao phó quản lý kho tàng này.
Hoàng Hạc thấy Phi Bằng mà trong lòng cũng tự thầm:– Họ Hoàng xuất hiện được một kỳ tài. Bỗng nhiên ông rơi lệ, quỳ xuống bái Phi Bằng, diễn ra bất ngờ.
Hoàng Phi Bằng la lên :
― Nội tổ làm gì vậy ?
Hoàng Phi Bằng phản ứng kịp lúc tránh ra một bên, rồi đỡ Hoàng Hạc đứng lên thưa :
― Thưa Nội tổ, điệt nhi không nhận hành lễ này đâu .
Hoàng Hạc hai mắt sáng ngời, ngừng lại giây lát rồi nói :
― Phi Bằng điệt nhi, xin nhận ba bái bồi ân của Nội tổ.
― Điệt nhi xin Nội tổ từ đây về sau đừng làm như thế nữa, điệt nhi tối sầm mặt mày cả rồi .
Chàng khóc "hu...hu..." Hoàng Hạc biết ý cháu mình liền vấn ân :
― Nội tổ làm như vậy là thay mặt cho Tổ tiên, anh hùng Bách Việt Lĩnh Nam, chứ Nội tổ không vì điệt nhi đâu. Nay điệt nhi chính là chủ kho tàng này, có lòng dâng hiến cho Bách Việt, mà thân danh bất lộ, điều này Nội tổ cảm kích lắm, vừa rồi nội tổ thể hiện tự đáy lòng thay mặt xã tắc đó mà.
Hoàng Phi Khải đứng ngẩn người ra miệng lẩm bẩm thay mặt Hoàng Phi Bằng thổ lộ :
― Nội tổ à, đời người làm việc tốt thì lòng người trong sáng, tinh thần thoải mái, không vương vấn buồn phiền, lúc nào hài nhi cũng cung kính Nội tổ. Những ngày tháng hài nhi ở bên Nội tổ xem như đã học gần hết kho kinh sống của Nội tổ, nếu không có Nội tổ thì không có điệt nhi ngày nay. Nội tổ cũng đã đem hết tài sản của mình để trợ khó cho tha nhân, xem thân phận địa vị chỉ là cái áo của con người, nhơn sinh khổ đoản, yêu thương không kịp thì nào hại ai ! Tinh thần đó hỏi đời này có mấy ai làm được, cuối cõi đời rồi ai cũng phải vĩnh biệt thế gian, nói chung đời này có vật gì để đem theo được đâu, có chăng chỉ đem theo được cái tình người. Bây giờ mới hiểu Bằng hiền đệ của điệt nhi, mà người xưa đã nói "Những ngôi sao trên trời là giọt nước mắt của hiền nhân" cho nên tinh thần nhân ái của Nội tổ lúc nào cũng ở trong lòng chúng điệt nhi.
Hoàng Hạc vui mừng, cảm động khẽ nói :
― Những kinh thư nào chép lời uyên thâm đó để cho Phi Bằng và Phi Khải học vậy ?
Hoàng Phi Bằng cuối đầu thưa :
― Thưa Nội tổ, điệt nhi học được ba bộ kinh thư sống. Thứ nhất là Binh pháp của Nội tổ, thứ hai Thư pháp của Gia gia, thứ ba là bộ gia tộc của Mẫu thân.
Còn ở động này hài nhi đọc được những bộ thư pháp, như Tri tư đạt lễ, Châu dịch, Bách vụ kinh, Hoa thư, Binh pháp, Nông canh, Tan hôn tương tớ, y dược, Chim bốc, Chim thiết giả, Thiên tượng địa trắc. Còn Binh pháp chẳng qua là bổ túc vào căn bản đã có. Nhân dịp này mời Nội tổ đọc qua hai bộ sách ấy.
Hoàng Hạc cũng là dân công trùng sách, thấy sách là quý như châu báu. Sách là kiến thức làm no cái đầu, nhờ sách đỉnh trí tuệ mỏ sáng, người không no phần đầu xem như chết một phần cơ thể. Ngoài vung trời về chiều, ba ông cháu họ Hoàng mới xuống động Đông, những ngày ở đây ông cháu thường luận Thư pháp, Binh pháp, Bách vụ kinh v.v... Hoàng Hạc đọc hai bộ "Tuyệt Cao Kỳ Kiếm" và "Phong Tâm Kiếm" còn Hoàng Phi Bằng và Hoàng hi Khải phụ em khai đào mở rộng ba bờ hồ dưới suối, lấy cây đang lờ cho cá lớn vào nhưng ra không được, đây cũng là cách nuôi cá làm thức ăn cho bầy hạc, độ này ở trong động hơn năm mươi đại hạc, lớn nhỏ.
Từ xa những con hạc lớn thấy chủ về, chạy đến vui mừng, còn những con hạc mới vào động thấy loài người là sợ không dám đến gần, hơn mười con hạc đến sè cánh múa chào Hoàng Phi Bằng, bầy hạc cũng biết trong động có hai người lạ mặt mới đến.
Hạc và người bất đồng ngôn ngữ làm sao mà hiểu cho nhau, nên Hạc và Hoàng Phi Bằng chỉ hiểu qua ngôn ngữ động tác. Chàng lấy con Tu hú gỗ làm phát âm. Con hạc nào bị bệnh thì được chàng trị liệu, đôi lúc hạc còn thích chải tóc cho chàng, xem ra người và thú có một thứ tình chung "Cứu vật vật trả ơn, cứu nhơn nhơn trả oán". Hoàng Phi Bằng hướng dẫn bầy hạc sinh hoạt rất là đặc biệt như đưa tin, vận tải, chở người, hạc vừa bay vừa ăn trên không, báo hiệu đề phòng người lạ vào động.
Chàng còn sản xuất ra một kho ám khí để trên đỉnh núi Tây. Còn đỉnh núi Nam dự trữ lương khô cho hạc, khi có người lạ vào động thì tất cả hạc bay lên cửa Nam và cửa Đông tạm sống, ngoài ra chàng còn hướng dẫn cách tấn công, một khi Hoàng Phi Bằng vắng mặt, nếu có người lạ vào động sẽ bị trung đoàn hạc tấn công bằng ám khí, hạc còn quan sát người ngoài động để báo tin cho Hoàng Phi Bằng.
Hôm sau ba ông cháu họ Hoàng rời khởi động Lạc Việt cùng năm con đại hạc, chở về Cửu Chân ba bộ Thư pháp, Binh pháp và Bách vụ kinh cả nhà họ Hoàng thực hiện công việc sao lục sách, riêng Hoàng Phi Biên thì lo đúc binh khí.
Hai ngày sau Hoàng Hạc đi Quế Lâm thăm viếng gia tộc, thân nhân cùng vài thân hữu, nhân dịp này Hoàng Phi Bằng cũng xin đi theo hầu, hai ông cháu cưỡi đại hạc về hướng Bắc.
Ánh sáng thiều quang vừa buông xuống, không gian song tình hoàng hôn hẹn nhau giao hợp mỗi buổi chiều tà. Cảnh đẹp thanh vẻ mộng xuân thời, làm chao đảo trời đất từng khắc giây, thi nhau đổi áo màu hồng rồi lại nhạt xanh, cũng có lúc tím rồi lại mặc áo toàn thân đen cả phần vũ trụ. Cứ thế ngày đêm chuyển đã ngoài Cửu ức niên thừa.
Đôi cánh hạc bay vào cương vực Quế Lâm, từ trên không trung nhìn xuống, Hoàng Hạc lần đầu tiên thấy toàn cảnh giang sơn, ông cảm xúc sự hùng vĩ của quê hương đất tổ, tuy Hoàng Hạc đã đọc nhiều thi phẩm tả về đất Quế Lâm, nhưng không bằng chính mắt thấy từ trên không trung, tự lòng xúc cảm cái đẹp của thiên nhiên, đất nước và sức sống của con người, cá tính lãng mạn là tình phiêu linh không biên giới, sông núi một cặp uyên ương chung thủy thiên thu, không thể trống vắng trong trí giác của Hoàng Hạc, một thứ tình yêu khao khác từ lòng cảm hứng cuộc đời, đây mới là lúc rừng núi Ly Giang và đồng nội Quế Lâm trải rộng thi ca trong lòng Hoàng Hạc, miêu tả qua cảnh Tình Ly Giang:
Đường về đất tổ Ly Giang
Lòng ta sông núi bạt ngàn mênh mông
Ta đi vẫn nhớ ruộng đồng
Lúa sắn khoai đậu tình nồng chung duyên
Hương thơm bác ngác tự nhiên
Mùa vàng ngày hội liên miên đổ về
Tiếng hò người hẹn mùa kê
Ngược xuôi gia lễ phu thê dịp này.
Thi ca đồng nội và núi sông Ly Giang, cho Hoàng Hạc một cảm tác mới. Lần về quê này cho ông một cách nhín mới của sông núi Ly Giang, quả thực quê hương gấm vóc "danh bất hư truyền". Hoàng Phi Bằng lại có suy nghĩ riêng, mỗi lần đi ngang qua Quế Lâm thấy núi rừng quyện thành sức mạnh sinh tồn của Bách Việt. Nhất là Ly Giang như con rồng thủy lộ, ôm cả dòng chảy trùng điệp, một thành quách tạo hóa sinh ra đất linh kiệt ban cho Lạc Việt, Ly Giang là sức sống của rừng núi Quế Lâm, người dân ở đây sống hiền hòa trong phong thổ sông núi Ly Giang, như có ai đã an bài từ trước .
Lưu lượng dòng Ly Giang chảy mạnh, lòng sông sâu, hai bên bờ rộng, có mười bốn nhánh sông, đôi lúc tạm biệt một khoảng đường rồi hẹn đến điểm hội ngộ đó là đặc thù với mỹ danh Ly Giang. Địa thế sông núi Quế Lâm tạo ra một cảnh đẹp và nói lên sự hợp tan, chia tay rồi hội ngộ, không khác nào những ẩn dụ hợp tan trong cõi đời người .
Truyền thuyết có nói : "Ngày xa xưa núi rừng Ly Giang hội tụ hiệp khách khởi nghiệp, họ thường xuất hiện tại đầu nguồn Quế Địa thuộc cụm núi Hồ Miêu Nham và Đoàn Hoa Giang". Người đi hay ở Quế Lâm đều biết hình thể và ưu điểm của mỗi núi rừng, như Trung Tú Phong Tháp, Điển Quảng Trường, Kỳ Phong Lâm Lập là nơi xuất hiện những danh sĩ. Núi rừng Xuyên Sơn, Nam Khê Sơn, Thất Tinh Nhạm có những lãng mạn chọn cuộc đời tu tiên, ẩn sĩ. Núi rừng Hiệp Linh Châu Vu, Tháp Sơn có những đa tình sơn thủy chưa chịu dừng bước chân kiếm khách, họ chờ thời xuất kiếm giang hồ. Ly Giang cũng là nơi giới đẹp đa tình, từ đầu nguồn đến cuối nguồn không khác nào một thân hình tiên nữ trải dài hơn trăm cây số. Ly Giang chuyên chở lưu lượng phù sa phong phú tạo thành một đồng bằng phì nhiêu rộng lớn, nối vào núi Quân Thiệp Tiêu Thủy và Ly Giang tiếp tục chảy qua núi Quán Nham U Động, Trổ Đế. Sông núi là một thứ tình tri kỷ như Hoàng Bố Ảnh, Bán Cổ Trấn, Hưng Bình, tiếp tục trao tình với núi Ngư Lộc và Tuyết Thái. Ly Giang chảy đến đâu cũng để lại một đứa con rơi như núi Điền Viên tại huyện Túc Sắc, ở đây Ly Giang phân thân thành hai một chảy về hướng Tây với mối tình chung núi Mao Giá Phong ở hướng Nam. Ly Giang lại bước thêm một bước dài chảy đến núi Thư Đồng Sơn, cho ra một cánh đồng ngô.
Trên không trung Hoàng Phi Bằng thấy dấu chân núi rừng còn trùng trùng điệp điệp, bao la cao ngút chạy đến chân trời. Một khắc sau chàng mới thấy Ly Giang hiện thân chảy vào đồng bằng thị Nan Ninh, thủ đô tôn tộc Lạc Việt, đặc biệt Nam Ninh thị nằm trong thung lũng đồng vàng. Núi sông là tình tự của Quế Lâm, nó cứ tiếp tục biến sinh cảnh đẹp trần thế, như Đoàn Hoa Giang mây phủ từ cao xuống chân núi, lúc ẩn lúc hiện phong cảnh phù điêu tuyệt tác, còn núi Nhiếp Thái Sơn quê hương của loài chim quạ trắng, núi Phong Tháp có động Trầm Chu khói đỏ hương thơm, núi Quế Liên cho quế trầm hương, núi Tam Lý điển quảng trường bút tích, mờ mờ lời kinh trên bích núi vọng xa. Núi Kỳ Phong danh lam thắng cảnh kỳ bí, có vòi nước nóng phun cao hai thước, núi Xuyên Sơn trong lòng có đường đi rất đẹp từ Tây qua Đông, núi Nàng Thu hùng vĩ nhiều động thạch nhũ, núi Thất Tinh Nhạm bảy hình tinh tú trong động không khí hơi lạnh, núi Sách Tỷ Sơn vách núi đá chồng chất như sách vở. Theo truyền thuyết dân gian "Một nho sinh bỏ sách vở, chạy theo tiếng gọi của tình yêu".
Không xa lắm có núi Linh Châu Vu những nhà tu ẩn thường đến đây cầu Đại Ngọc Cơ xin thuốc trị bệnh và hỏi thăm thời thế. Núi Tháp Sơn cao ngất xếp thành từng tầng, được xem là biên giới của hai tỉnh Quế Lâm và Nam Hải. Quế Lâm cũng là nơi tụ hội của những đảng cướp, giáo phái, bang hội vì núi rừng ở đây có nhiều hang động thiên nhiên và hiểm yếu. Đến đây Ly Giang tạm biệt Quế Lâm chảy vào đồng bằng Nam Hải, những ai có đi qua mới biết Nam Ninh là thành trì kiên cố nhất của Quế Lâm.
Miệng đời loan tin khắp gần xa, còn hơn phi mã. Tin ông cháu họ Hoàng về lại quê hương đất tổ, thăm viếng tổ đình tôn tộc họ Hoàng. Người đầu tộc họ Hoàng nguyên triều Quế Lâm Vương tên Hoàng Trung Nhất chính là thúc phụ của Hoàng Hạc. Hoàng Hạc về thăm tổ đường, cả họ vui mừng tụ hội, những đầu các lão không thiếu một ai, kẻ nhớ thương người trông đợi. Hoàng Hạc xa quê hương từ thuở mười hai, cho nên kẻ xa người gần hiếu khách, còn nghe danh Hoàng Hạc ngày nay nguyên là Quốc sư Nam Việt, trong họ đua nhau thăm hỏi gia cảnh từ ngày lập nghiệp Giang Tô rồi nay đến Cửu Chân, cả họ muốn nghe Hoàng Hạc nói về đời sống mới và muốn biết về điệt nhị Hoàng Phi Bằng vang danh hiệp khách trong giới võ lâm đương thời, những hiếu khách mỗi lúc hội về càng đông, sảnh đường Quế Lâm Vương trong ngồi chật ních như niêm, ngoài sảnh đường cũng không còn chỗ để đứng ngồi. Quan trọng nhất là cả họ muốn biết mọi diễn biến trong thời gian đại hội tại thành Phiên Ngung.
Quế Lâm Vương mở tiệc chiêu đãi cháu Hoàng Hạc tại tòa Điện Cát Vương, cả họ nao nức ái mộ thiếu niên tuấn kiệt của họ Hoàng vừa xuất hiện đã được mời tham dự đại hội anh hùng thành Phiên Ngung, quả là một danh dự lớn cho trong họ. Lúc mới đến họ tưởng Hoàng Phi Bằng là đồng nhi theo hầu Hoàng Hạc, riêng Trịnh Bình và Nguyễn Trúc tướng quân Quế Lâm đã biết Hoàng Phi Bằng qua hình ảnh của Trịnh Trường ngày ấy. Hoàng Hạc trình bày tình hình cho Hoàng Vương nghe, về tình hình Quế Lâm hiện nay để phòng bị, ông nhắc nhở Hoàng Vương chú ý đến tờ lập tịch họ Hoàng, cũng nhân dịp này Hoàng Hạc giới thiệu Hoàng Phi Bằng cho cả họ đồng biết nhau. Hoàng Phi Bằng đang đứng hầu nội tổ, cả họ vừa nghe giới thiệu về chàng, mọi người vui mừng đồng "ồ" lên nói :
― Xem kìa anh hùng Hoàng Phi Bằng đó.
Hoàng Phi Bằng đế Quế Lâm như một hiện tượng thần đồng. Tin thần đồng không có chân mà chạy loan truyền rất nhanh, thanh niên trong và ngoài họ thi nhau kéo về sảnh đường Hoàng Vương để ái mộ Hoàng Phi Bằng, họ xem chàng là thần tượng đại diện cho tuổi trẻ thời nay. Tổ phụ Hoàng Trung Nhất thấy vậy cũng đem lòng cảm kích, ông dành riêng một tiểu sảnh đường trong Vương phủ để Hoàng Phi Bằng tiếp xúc huynh, tỷ, đệ, muội trong ho và ngoài họ, có hơn hai trăm thiếu niên tham dự.
Hoàng Phi Bằng đứng lên cúi đầu chào, bỗng nhiên có một tràng pháo tay vang thật lâu, lòng chàng ái ngại, miệng ứng khẩu thưa :
― Thưa quý đại huynh, tỷ, đệ, muội tại hạ Phi Bằng về thăm quê hương đất tổ, cùng đi với nội tổ Hoàng Hạc, nhân dịp này tại hạ sơ giao bằng một ca khúc Lĩnh Nam, xin tặng quý hiền, để thay lời phát biểu :
Bách Việt bờ cõi bao la
Đi hoài vẫn thấy còn xa tít mù
Ai hỏi Việt đã bao thu
Kẻ chí lớn nói cửu lưu vạn đời
Sông núi nói với muôn người
Từ Bắc xuống Nam một trời một giang
Lạc dân muôn triệu bản làng
Tây–Đông cửu như, hợp đằng phương đông
Thanh xuân muôn chí tang bồng
Thân bút kiếm võ thành đồng chắp vai
Dẫu xương pha cũng làm trai
Vũ lộng nào sợ chông gai đổi lòng .
Trong ngoài sảnh đường nổi lên tiếng vỗ tay ngưỡng mộ lời sông núi gọi, Hoàng Phi Bằng tự dưng thuyết phục được trên hai trăm thanh thiếu niên. Chính lời ca này trở thành huyết ca hùng tráng, tiếng vỗ tay vang mãi tam khắc mới thôi, Lĩnh Nam Ca chỉ thoáng qua một lần, thế mà toàn thể thanh thiếu niên thuộc làu lời ca, ngay cả người lớn đứng ở ngoài sảnh đường cũng tán thành Lĩnh Nam Ca như khơi động hùng khí của tuổi trẻ.
Có một thiếu niên phát biểu, ai cũng biết đó là người họ Hoàng :
― Thưa quý đại huynh tỷ, tại hạ Hoàng Anh Tuấn, sau khi nghe Lĩnh Nam Ca như lời gọi thôi thúc mạch huyết cuồn cuộn, tâm hồn dâng lên hùng tráng, như có sức mạnh lên đường, có tiếng gọi tập hợp trong lòng tại hạ, cũng là tiếng nói chung của toàn thể tuổi trẻ hôm nay, xin quý hiền huynh, tỷ hãy làm gì cho non sông gấm vóc hôm nay.
Tiếng vỗ tay vang lên tán thưởng lời phát biểu của họ Hoàng. Một thanh niên khác cũng đưa tay lên xin phát biểu :
― Thưa quý huynh, tỷ tại hạ họ Nguyễn tên Chung Kiệt. Lĩnh Nam Ca là huyết khí sức mạnh của tuổi thanh xuân, tại hạ mạo muội suy nghĩ Lĩnh Nam Ca chính là lộ trình hành động của tất cả những anh thư tuấn kiệt thời nay, Lĩnh Nam Ca thay lời phát biểu của toàn thể quý huynh, tỷ cũng là ý chí thanh xuân hằng trăn trở và tự hỏi mình hãy làm gì cho hôm nay và mai sau cho Bách Việt. Lĩnh Nam Ca là một động lực của sức mạnh giải bày, vậy xin quý huynh, tỷ hãy nắm tay nhau kết thành vạn hùng binh để trừ giặc Hán phía Tây Quế Lâm.
Tất cả đồng vỗ tay reo hò tán thành ý kiến của họ Nguyễn. Một thiếu nữ khác đứng lên, ai cũng biết đây chính là muội muội của Anh Tuấn, có biệt hiệu Nhạn Tín Anh Thư, nữ kiệt tương lai của đất Quế Lâm phát biểu :
― Thưa quý đại huynh, tỷ tiểu nữ danh tự Thanh Thủy. Vừa rồi nghe đại huynh Anh Tuấn, Nguyễn phát biểu lời tình hữu lý, nhưng văn võ phải song hành, tuổi trẻ ngày nay muốn xây dựng đất nước cần phải hiểu biết tổng quát, nhất là sự thành hình của một tổ chức, trên căn bản phải có văn hóa, hành động tốt, đó là nguyên nhân để thực hiện lý tưởng phụng sự tôn tộc Bách Việt. Tại hạ nguyện đi đầu khởi sự, xin quý huynh tỷ hãy lập chí thì như ý sẽ thành công.
Tiếng vỗ tay vang dội trong và ngoài sảnh đường xắp xỉ hai trăm thanh niên, lần đầu tiên họ nghe một thanh mai mỹ tú, mạnh dạn bày tỏ ý kiến riêng. Các cô cũng hãnh diện vì bạn mình có thực tài văn võ, còn các cậu rất thỏa mãn đã thấy được chân dung xinh xinh của nữ quí tộc, nhất là nàng hứa với giới nam cùng đi trên đoạn đường lý tưởng do tuổi trẻ thực hiện.
Một thanh niên khác thân hình vạm vỡ, vừa đứng lên là hai trăm đôi mắt đồng một hướng, quả vậy họ chưa bao giờ gặp người thanh niên khôi ngô tuấn tú tướng mạo như kẻ học cao hạnh đức, chưa phát biểu đã thuyết phục được người nghe nói :
― Thưa quý đại huynh, đại tỷ tại hạ họ Lê tên Chí Nam, quê Giao Chỉ vừa đến Quế Lâm để tầm sư học văn lẫn võ. Vô tình được quý nhơn nhủ bảo đến đây, tại hạ vì có tính học hỏi việc lạ, cho nên mạo muội tâm tư cũng theo vào, hôm nay là ngày đầu tiên tại hạ đến trường đời, xem như đã học được văn lẫn võ, nhất là Lĩnh Nam Ca và những lời phát biểu của quý hiền huynh, tỷ tại hạ xem đây là những lời giá trị đúng nghĩa sống làm người, đáng để chúng ta suy tư và hành động. Thảo nào Quế Lâm lắm anh tài, tuấn kiệt, tại hạ xin nguyện theo ý chí của quý huynh, tỷ. Chàng thở nhẹ rồi nói tiếp:– Thưa quý huynh, tỷ cho phép tại hạ được phát biếu thêm ý kiến thô thiển như sau. Người trượng phu sống chết không hề tiếc rẻ thân phận, không phân biệt cao thấp trong xã hội, không phân tranh với bất cứ ai về đời sống, không duy quyền, duy lợi, duy danh cho cá nhân, nhưng họ chỉ có hai thứ duy để đáng đam mê mà thôi, đó là duy phúc dụng võ vì xã tắc nhơn quần, duy đức dụng văn bảo cổ canh tân vì văn hiến Bách Việt. Tại hạ xét thấy quý hiền huynh, tỷ muốn làm một việc duy phúc và duy đức. Nhân hôm nay tại hạ xin làm người hầu nhị duy còn hơn đi làm "Hàng thần lơ láo phận mình ra chi".
Chàng vừa dứt lời, tiếng vỗ tay không ồn ào lắm, như có âm sắc man man lời dạy hiền nhân, quả vậy trong sảnh đường có văn-võ đồng tình thế cuộc. Hoàng Phi Bằng suy tư nhiều về những lời phát biểu vừa rồi, chàng nẩy ý phát động thành một điểm hẹn của tuổi trẻ tại Quế Lâm, chàng tự thầm:– Mình phải có trách nhiệm với quý huynh, tỷ ấy mới được, chàng đứng lên trịnh trọng phát biểu :
― Thưa quý huynh, tỷ tại hạ đa tạ lòng ưu ái của quý huynh, tỷ qua Lĩnh Nam Ca, nhờ vậy mới hiểu được ý lòng của nhau. Thưa quý đại huynh, tỷ hãy xem ngày hôm nay là điểm hẹn của hành động, tại hạ xin hứa giới thiệu với quý huynh, tỷ với hai nghĩa đệ văn võ song toàn đã từng tham dự đại hội anh hùng Phiên Ngung thành, chính nhị vị huynh đệ này đã ra tay tảo trừ bọn tham quan ô lại, thối nát như Lê Vĩnh cùng đồng đảng.
Cả hội trường đều mừng vui, có nhiều tiếng ngạc nhiêu "ồ ồ...", kéo dài vang dội khắp sảnh đường. Hoàng Phi Bằng phát biểu tiếp:– Tại hạ đề nghị hôm nay là ngày lành tháng tốt nên thành lập tổ chức lấy danh xưng là Thiếu Quân Lĩnh Nam.
Tất cả thanh niên đưa tay lên đồng ý, rồi hô:– Chung lòng sống trong trời đất. Lê Chí Nam đưa tay lên đề nghị :
― Thưa quý đại huynh, tỷ tại hạ đề nghị mượn Lĩnh Nam Ca thành Thiếu Quân Lĩnh Nam Ca, vậy huynh tỷ có đồng ý không ?
Tất cả xấp xỉ ba trăm thành viên cùng đưa tay đồng ý, bài Lĩnh Nam Ca được cất lên thành ý chí và hành động, tiếp nối tiếng vỗ tay liên hồi như cuộc xuất quân ra trận. Lần đầu tiên Hoàng Phi Bằng thuyết phục tuổi trẻ Quế Lâm ngoài dự trù trước. Tất cả thanh niên đông ghi danh để thành hình tổ chức Thiếu Quân Lĩnh Nam, họ đề cử Hoàng Anh Tuấn làm Quân trưởng, Lê Chí Nam Quân phó đệ nhất, Nguyễn Chung Kiệt Quân phó thứ hai và Hoàng Thanh Thủy Quân phó nội vụ.
Hoàng Phi Bằng thỉnh ý Hoàng Vương thay mặc thanh thiếu niên tuyên bố :
― Kể từ lúc này tại hạ xin hứa cung cấp binh khí và lương thảo để quýí đại huynh, tỷ luyện tập văn võ, ba hôm nữa có hai nghĩa huynhh đệ là Lý Bình Trung và Trịnh Trường sẽ đến đây hổ trợ luyện tập võ học, binh pháp.
Hoàng Phi Bằng xin nội tổ Hoàng Trung Nhất cung cấp đất và phương tiện để lập trại, Quế Lâm Vương đồng ý ủng hộ. Chàng thay mặt Thiếu Quân Lĩnh Nam lạy tạ ơn Quế Lâm Vương, cùng lúc Hoàng Phi Bằng viết một giản biên ra lệnh hai con hạc đem tin chở Lý Bình Trung và Trịnh Trường đến Quế Lâm.
Hoàng Hạc bận rộng nhiều việc riêng của tôn tộc, ông ở lại vài ngày rồi về Cửu Chân, riêng Hoàng Phi Bằng chào tạm biệt nội tổ Hoàng Trung Nhất và Hoàng Hạc cùng toàn thể tôn tộc họ Hoàng, phần Thiếu Quân tính đến lúc này tập hợp trên bốn trăm thanh thiếu niên. Hoàng Phi Bằng được Thiếu Quân Lĩnh Nam tiễn đưa một đoạn đường dài. Chàng búng mình phi thân lên lưng đại hạc, vẫy tay chào. Chàng tự nhủ lòng "Đi một quảng đàng, học một sàng khôn". Đại hạc bay về hướng Nam.
Trong động Lạc Việt chỉ còn lại Hoàng Phi Khải, cứ vài ngày chàng về nhà thăm Gia gia và Mẫu một lần, bổn tính lấy hiếu làm đầu, cũng là anh cả trong gia đình cho nên không thể vắng nhà quá lâu. Trên đường thâu đêm trở lại động Lạc Việt, cũng đến lúc phải nghỉ ngơi hầu lấy lại sức khoẻ. Chàng chọn dãy Nam Khê Sơn thuộc Đại Tân, Giao Chỉ. Có cây cổ thụ lớn nhất để ngủ qua đêm, chờ chiêu dương hôm sau mới tiếp tục hành trình.
Lúc chàng ngủ không trải mộng ảo vì chàng là khối vô tư của mọi sự lành, cứ thế ngủ trong êm đềm trôi qua hơn giờ ngọ, tâm thần của chàng còn tương giao với âm dương, thủy hỏa tương tế, đó là phép luyện âm dương tương hỗ tương thanh hòa Tinh, Khí, Thần tương sinh tương hợp, hòa vào tinh thần tỏa ra sảng khoái.
Vốn sống lạc quan lấy an lành bỏ mọi sự tranh chấp, dù ở trường hợp nào hay mỗi lúc đi ngủ giác quan vẫn động, có khả năng đếm được từng tiếng mưa rơi và phân biệt diễn biến chung quanh. Chàng đang phơi mình trên cành cây, dưới ánh sáng ban mai của một ngày mới, cả không gian cũng theo đó sinh hóa thuận hòa. Bỗng chàng nghe có những tiếng chân chạy từ xa đến gần, một trước và một sau như hai người đang rượt đuổi. Chàng chưa mở mắt đã biết một thiếu niên vừa nằm xấp xải dài dưới gốc cây cổ thụ, thiếu niên sau chạy đến cũng nằm dài, hai tay ôm thiếu niên kia, tất cả đều nằm im lìm bất động. Chàng liền mở mắt ngó xuống thấy hai thân thể đã liễm đầy máu tươi, trong suy nghĩ của chàng:– Có thể, họ đang bị địch thủ truy kích, nội lực cả hai đều yếu đuối, không còn sức lực. Chàng áng chừng hai người này tuổi chỉ mười bảy mười tám, họ ôm nhau nằm bất tỉnh không cử động, nhìn thấy rõ trên thân thể của hai người này toàn là những vết thương đầy máu.
Thấy vậy chàng nhảy xuống đất, búng vào đỉnh môn, trước ngực và đơn điền của mỗi thiếu niên một viên "Cốt quỳnh đơn", thân thể từ từ động đậy có sự sống, luôn tiện chàng búng thêm cho mỗi người một viên "Cốt quỳnh đơn" thứ hai, cả hai mở mắt thấy trước mặt là một vung trời lớn và một người xa lạ bào phục uy nghi.
Chàng ngạc nhiên tự thầm:– Địch thủ quá lợi hại, sử dụng vũ khí móng vuốt, điểm vào huyệt "Kiên trinh" huyệt "Đại truy" rất sâu. Chàng thấy huyệt đạo có thể làm nguy hiểm đến tính mạng, liền tay xuất chiêu giải huyệt "Đốt mạch", thế là hai thiếu niên đứng dậy được, đồng quỳ xuống bái sâu hai lạy nói :
― Chúng đệ tử kính lạy Tiên ông ân sư cứu sống huynh đệ chúng hài nhi.
Lúc hai thiếu niên còn nằm dưới gốc cây, thần trí mê mang, thấy tiên ông hóa hiện cứu sống. Cho nên hai thiếu niên lạy và gọi Hoàng Phi Khải là Tiên ông ân sư, tuy hai thiếu niên như đã chết mà vẫn cảm nhận được chính nhờ tiên đơn mới sống lại. Hoàng Phi Khải thấy bào phục của hai thiếu niên đã cũ còn rác tả tơi, trên thân thể mặt mày có nhiều vết thương. Chàng vội phi thân lên cây, lấy nước từ lưng đại hạc xuống lau rửa vết thương và thoa thuốc "Hoàng Hổ Cao", máu hết liễm ra ngoài, nhân chàng có đem theo ba bộ bào phục mới, bảo :
― Nhị đệ mặc bào phục này nhá, tuy hơi rộng nhưng có để mặc còn hơn không có ?
Hai thiếu niên cúi đầu có ý tạ ơn Tiên ông sư ân, chàng thấy hai thiếu niên tướng mạo tuy hai mà một, tuấn tú, khôi ngô, vai rộng, mắt sáng, ngoại hình vạm vỡ. Chàng phóng tâm không để ý nữa vì còn nhiều việc phải làm, cho nên cần phải đi gấp nói :
― Xin chào nhị đệ có dịp gặp lại.
Hai thiếu niên ứa lệ cầm tay Hoàng Phi Khải, ý khẩn cầu xin khoan đi, cả hai đồng quỳ xuống nói :
― Nhị tiểu nhi, xin theo hầu Tiên ông ân sư đã liệu thương tục mạng.
Hoàng Phi Khải có ý từ chối :
― Không được vì hoàng hôn xuống mỗ phải đi thôi.
Hai thiếu niên vội nói :
― Thưa tiên ông ân sư, từ đây đến hoàng hôn còn lâu lắm, vậy tiểu nhi mời tiên ông ân sư về nhà để Gia gia của tiểu nhi tạ ơn và hầu ân sư một buổi cơm chiều rồi sau đó đi cũng chưa muộn.
Hoàng Phi Khải ngạc nhiên hỏi :
― Nhị tiểu đệ có phải song sinh không, từ đây về nhà là bao xa ?
― Thưa tiên ông ân sư, đúng vậy huynh đệ tiểu nhi đúng là song sinh, năm nay mười bảy tuổi tròn, còn một cặp song sinh nữa năm nay mười sáu tuổi tất cả là bốn trai, từ đây về đến nhà chỉ tam khắc.
Hoàng Phi Khải thấy hai thiếu niên này cũng đem lòng mến, nghĩ thầm : – Gia đình này kỳ lạ, đầu năm cuối năm sinh cùng lúc bốn người con trai, chàng hỏi tiếp :
― Thôi được, nhưng trước khi về nhà ra mắt gia gia của nhị đệ có thể cho biết sơ qua về sinh hoạt gia cảnh ở trong rừng núi này như thế nào có được không ?
Hoàng Phi Khải tự hỏi:– Hai huynh đệ này tuy có lòng tốt, nhưng mời mình về nhà để dùng cơm thì thấy là bất tiện, vì người ở rừng núi cuộc sống khó khăn, mình làm ơn mà mất một phần ăn của họ thì không hay tí nào ! Nếu đem theo phần ăn của mình đến với họ, không biết họ nghĩ về mình ra sao ? Hai tiểu nhi thực lòng đáp :
― Thưa tiên ông ân sư, gia đình Nội ngoại của tiểu nhi sống ở đây đã ba đời người, tất cả là tám người sống ẩn, hành nghề bắt thú rừng, bắt cá dưới suối, lương thực thì tự túc, kể ra sống cũng thoải mái. Cách đây mươi ngày huynh đệ tiểu nhi đi gài bẫy kẹp bắt được một báo con hai mươi cân. Hôm nay biết thế nào báo mẹ cũng đến tìm báo con, tiểu nhi chuẩn bị đã lâu và kỹ thuật bắt thú cũng chu đáo, gài bẫy cho bằng được báo mẹ, nhưng không may bẫy chỉ kẹp được một chân của báo, cho nên nó vừa thù, vừa phẩn nộ phản công rất mạnh.
Huynh đệ tiểu nhi tuy có võ nghệ nhưng không hạ được báo, đại huynh của tiểu nhi bị báo vồ, cũng may thân thể còn nguyên, còn tiểu nhi thấy vậy cũng liều vào sống chết với báo để cứu đại huynh, báo xoay qua tấn công tiểu nhi, sức mạnh của nó không phải tầm thường, cuối cùng đại huynh và tiểu nhi kiệt sức đành phải bỏ chạy, báo cũng rượt theo, nhưng nhờ bẫy kẹp có dây lòi tói rắn chắc cho nên báo chạy không được xa. Nỗi sợ kinh hoảng, huynh đệ tiểu nhi chạy về nhà nhưng chạy đến đây là ngất lịm, may nhờ có tiên ông ân sư cứu sống.
Hoàng Phi Khải ngạc nhiên, hai tay chỏi vào hông đứng lên thật nhanh hỏi :
― Tại sao phải ba đời người sống ẩn ở trong rừng sâu này ?
Một trong hai thiếu niên thấp giọng âm trầm, thở dài thưa :
― Thưa tiên ông ân sư, đời thứ nhất Nội, Ngoại, đời thứ hai Gia gia, Mẫu thân, đời thứ ba huynh đệ tiểu nhi. Không biết hai đời trước vì nguyên nhân nào phải sống ẩn ở đây ! Theo lời của Gia gia khuyên huynh đệ tiểu nhi chú tâm luyện tập văn võ, còn những việc khác đừng hỏi đến, hiện nay Mẫu thân đang bị bệnh "Thập tử nhất sinh" không biết Người đi vào lúc nào, tứ huynh đệ tiểu nhi rất thương Mẫu thân lắm ạ !
Hoàng Phi Khải nghe đến đây cũng chạnh lòng đồng ý :
― Thôi, tại hạ đồng ý theo quý hiền đệ về nhà thăm viếng gia đình.
Hoàng Phi Khải vừa đến nơi, nghiêng mình chào cả nhà và chàng hỏi ngay :
― Cho phép tại hạ xem bệnh của thúc Mẫu, rồi hãy nói chuyện sau.
Cả nhà ai cũng ngơ ngác, tự dưng có một thanh niên lạ mặt thân pháp nhẹ nhàng, khôi ngô tuấn tú, vừa bước vào nhà đã hỏi bệnh nhân, cùng lúc cả nhà thấy hai đứa trẻ đi săn thú rừng lại mặc bào phục sang trọng. Cả nhà ngạc nhiên, cho nên không ai dám giới thiệu họ tên. Hoàng Phi Khải cũng không hỏi họ tên của hai huynh đệ, mà chính chàng giúp phục hồi sức khỏe cũng như chữa trị vết thương. Chàng đi theo sau hai ông lão cùng một trung niên và bốn huynh đệ của tiểu nhi, vào phòng đứng chung quanh bên sập bệnh nhân.
Hoàng Phi Khải tự biết người trung niên này là gia gia của tứ tiểu nhi, chàng tự nhiên xem như người trong nhà hỏi :
― Thưa Thúc thúc, hiện Thúc mẫu bệnh đã bao lâu rồi ?
Người trung niên trên khuôn mặt đôi nét buồn rầu nói :
― Thưa tiên sinh, nương tử của tại hạ bị bệnh đã hơn ba tháng, mỗi ngày bệnh càng trầm trọng thêm, uống nhiều thuốc mà không gia giảm, khổ nhất là nương tử của tại hạ hiện đang mang thai, tính đến nay đã hơn ngày khai hoa nở nhụy, mạch lý rất yếu, hơi thở chỉ còn thoi thóp, còn chờ ngày... ông thở dài, nói tiếp:– Không còn hy vọng mẹ tròn con vuông !
Hoàng Phi Khải suy nghĩ:– Cần sử dụng phương pháp nào để cứu người được đây ? Chàng chần chừ một lúc không dám nói thành lời, miệng lẩm bẩm đọc thầm một câu ca dao "Nước xao trăng lặng, buồn ơi hỡi buồn" đứng trước cảnh chọn một trong hai người phải sống. Chàng nhếch mép nở một nụ cười nói :
― Thưa quý các hạ, bệnh này nan trị, khó như ý, để tại hạ xem mạch lý thế nào, rồi sẽ tính sau. Nếu cứu được song thai, mà không cứu được mẹ, theo ý của Thúc thúc thì thế nào ?
Hai ông lão ngạc nhiên mắt mở to hỏi :
― Thiếu hiệp tuổi còn trẻ mà đã hiểu y thuật, quả là lương y tuyệt quần, mới xem mạch đã biết có song thai.
Người trung niên đứng bên cạnh vì thương nương tử vội trả lời :
― Thưa tiên sinh nếu cứu nương tử của tại hạ được thì nên lắm, hy vọng còn mẹ thì mai sau còn tiếp tục có con, người ta có nói "Còn da, lông mọc" hay "Còn chồi, nên cây". Tiên sinh đừng lo ngại !
Lão phu thứ nhất thân gầy cao, với đôi nhãn lực sáng, ông đứng lên phản đối :
― Mỗ biết, bệnh của nữ nhi dù có sống cũng vô dụng, tất cả lục phủ ngũ tạn đã phế thải hết rồi, nữ nhi còn thoi thóp được đến nay cũng là nhà có phước lớn. Hai nữa không nên để cả mẹ lẫn con đồng tử, nghĩa tế cứu song điệt nhi cho mỗ trước đã, rồi tính đến nữ nhi của mỗ cũng chưa muộn. Mỗ quyết định như vậy, nghĩa tế không được sai ý của mỗ .
Hoàng Phi Khải tự trách:– Tại sao ta phải vướng vào chuyện đời làm chi, dù có gọi trời cũng không thấu, thiêng liêng không làm chứng nội vụ này, quả là tự ta làm khổ lấy, dẫu cho cứu được mẹ thì cũng bỏ con, cứu được con thì bỏ mẹ. Chàng tự oán, Hoàng Phi Khải ơi là thằng ngu, tự nhiên nhảy ra làm bà mụ. Tuy chàng tự trách mình, nhưng lòng vẫn lấy quyết định cứu người không bỏ cuộc. Chàng thở ngắn than dài, chấp hai tay khấn vái:– "Trên cao có đấng trời háo sinh, ban hồng ân cho mẹ tròn con vuông, hay là lựa chọn một trong hai, sự sống nào cũng giá trị, xin ban bố cho gia đình họ được tiếp nhận hữu phước này".
Lão phu thứ hai thân hình lực lưỡng, nhãn lực huyền bí, trầm lặng, ôn nhu nói :
― Nhờ tiên sinh tự lấy quyết định, lão xin tiên sinh ra tay cứu độ cho song nhi, Tiên sinh hãy nghe lời khẩn nguyện này.
Hoàng Phi Khải lấy trong túi áo ra một hộp thuốc, rồi chân bước vội đến bên sập bệnh nhân, rồi từ tốn nói :
― Thưa Thúc mẫu hãy thả lỏng thân thể để được bình an.
Chàng liền thân thủ xuất chiêu nhanh như chớp vào huyệt "Kiên Trinh" bằng một viên đơn "Phong trục khí" bồi lực, rồi dùng tay làm châm phong mạch, sả máu ra bảy môn mạch lớn khiến cho nạn nhân đi vào trạng thái bài tiết ra chất độc tố ở trong thân thể, khi được tĩnh lại thì mới gọi là thành công, sự kết quả phải coi nơi ý chí cầu sanh của nạn nhân. Hoàng Phi Khải thừa biết chất nhiệt độc trong nạn nhân bị lâu ngày khó chữa trị vì nay đã đến thời kỳ cuối cùng, khí đã cạn bốc hỏa muồi hôi. Bệnh chất nhiệt độc như khách đến thăm, lúc đến cũng như lúc đi không thể biết trước. Lúc chàng phong mạch sả máu ra bảy môn mạch lớn là có ý cứu thai nhi, bỏ mẹ !
Thân thể của người đàn bà hơi tỉnh lại, trên nét mặt vui mừng, tuy nói không ra lời nhưng cử chỉ đôi mắt tỏ ý tạ ơn ân công. Cả nhà thấy vậy, không ai bảo ai biết đây là tia sáng hy vọng, mọi người đồng khoanh tay lặng lẽ cúi đầu tạ ơn Hoàng Phi Khải.
Chàng phóng luôn vào huyệt "Cột hầu" một viên "Phong đơn hầu" người đàn bà rùng mình, tiếp theo hai tiếng phát ra rất lớn "bục bục", tất cả người trong nhà mới biết song thai khai hoa nở nhụy, xem thật kỹ một trai, một gái, đúng là song nhi chào đời.
Người mẹ vận dụng nhãn lực nhìn hai đứa con song sinh, lúc này bà thu hết tàn lực của tình mẫu tử qua luồn ánh sáng hạnh phúc, đối với bà đây là một âm đức thiêng liêng, mà bà đã chờ đợi từ lâu, nay mới được thỏa mãn, một nụ cười như ý hiện trên môi. Bà tự tin và hy vọng, mai sau song nhi này sẽ thành nhân viễn đại, một lần nữa bà dành cho song nhi một nụ cười thiêng liêng của tình mẫu tử, bà rất hài lòng sự hy sinh vì con, cũng không ngờ đây là hạnh phúc ở cuối đời. Trước đây một khắc bà thất vọng vì ba tháng trôi qua trong ám ảnh lúc nào cũng tưởng mẹ không tròn, con không vuông, bà biết mỗi ngày đã cùng kiệt lực không còn hơi thở để sinh nở, bây giờ bà cảm thấy trong người như bay bổng trên mây, không vui mừng nào hơn thấy được con chào đời. Thời gian trôi qua bà được ân công bồi vào sinh lực mới thân thể nhẹ nhàng, sảng khoái, dễ chịu không vương vấn lo nghĩ nhiều, bà nói :
― Thưa Gia gia, nữ nhi chưa báo công ơn sinh thành, nay nữ nhi nóng lòng chẳng biết bao giờ trả hết ơn sâu, xin Gia gia tiếp ba lạy này, nữ nhi ghi khắc trong lòng nhờ dưỡng dục của Gia gia. Bà nói tiếp: – Thưa Gia ông, nữ nhi phận bạc không phụng dưỡng được Gia ông, xin ba lạy này để nghi ơn. Bà nhìn phu quân đôi mắt đổ lệ tình ân ái nói :– Đào phu quân, tiện thiếp rất hài lòng tình nghĩa phu thê, sau khi tiện thiếp qua đời hãy chăm sóc tứ nhi và nhị hiền điệt thành người như phu quân nhá, nếu con hơn cha là nhà có phúc đấy ?
Lão Gia ông thấy con dâu bệnh, lòng ông không an, nói lên vài câu để an ủi :
― Tức phụ đối với Gia gia rất là hiếu thảo, cứ nằm dưỡng bệnh, khi nào Mẫn Trâm hết bệnh thì nghĩ đến phụng dưỡng, đâu có muộn nào ?
Trần Mẫn Trâm nói tiếp :
― Đào huynh tình nghĩa phu thê chưa trọn, nay đành để lại tứ nhi và nhị điệt nhi, mong tướng công dưỡng dục, thành nhơn hữu dụng, muội ra đi lòng ghi mãi hạnh phúc này.
Bà đưa mắt nhìn quanh, ngừng lại giây lát rồi khẽ nói tiếp:– Tứ hài nhi là tình thủ túc phải thương nhau, sống chết có nhau, hai đứa em mà mẹ vừa sinh ra, tứ hài nhi phải bảo vệ em nhá ?
Bà hướng về Hoàng Phi Khải đôi mắt sáng ngời, như đang đa tạ tiên sinh đã cứu sống song nhi của họ Đào và Trần, ơn này ghi nhớ mãi mãi. Bà thở một hơi dài thoải mái, một nụ cười gia đình hạnh phúc, trên môi mang theo hình ảnh bình an, miệng còn lẩm bẩm hình như muốn thổ lộ tâm sự của mình cho những người trong gia đình cùng nghe !
Giọng nói âm trầm của bà lại nhỏ dần dần, hai mắt sáng ngời vẫn còn tâm ý ung dung mơ mộng, trên đôi môi còn nụ cười hiền hậu nói lên tâm ý mãi mãi hạnh phúc. Bà nhắm mắt để lại một thi hài mềm nhũn, khí nóng trong thể xác cũng từ từ tan biến chỉ còn khí lạnh, không khác nào một chung trà nóng mấy, rồi đến lúc cũng nguội lạnh !
Giây phút cuối cùng của nữ hiệp Trần Mẫn Trâm, chỉ để lại cho cõi đời một nụ cười bình an, trên đôi môi còn động lại niền tin và hy vọng. Tiếng thở dài tiếc thương của nhị lão Đào˗Trần, tiếng thở than trống vắng và nước mắt của trung niên họ Đào, những tiếng khóc nức nở của trẻ thơ thương kính mẹ. Hoàng Phi Khải cũng động lòng não nuột phân ưu cùng họ, ba ngày tang sự đã yên, gia đình Đào˗Trần trở lại sinh hoạt bình thường. Họ Đào, Trần, Hoàng tìm hiểu nhau về duyên do hội ngộ. Lão họ Đào cảm động vô cùng khẽ giới thiệu :
― Mỗ họ Đào tên Phụng Tiên, còn đây là thông gia họ Trần tên Bạch Phương, còn đây là hài nhi của lão tên Phụng Hòa.
Trần Bạch Phương giới thiệu tiếp :
― Tứ điệt nhi của lão Đào Phụng Tiên, tên là Đào Phụng Thương, Đào Phụng Hiệp, Đào Phụng Anh, Đào Phụng Châu, đặc biệt song điệt nhi mới sinh ra chưa biết đặt tên gì nhờ tiên sinh đặt tên cho.
Hoàng Phi Khải lúng túng không hiểu lý do gì mình phải đứng ra đặt tên cho người xa lạ, nhất là người sinh thành mới có đặc quyền khai sinh cho con cái, chàng bối rối thưa :
― Thưa quý lão tiền bối, trước nhất tại hạ xin giới thiệu, họ Hoàng tên Phi Khải, tại hạ không có cái vinh hạnh nào cả cũng không công dưỡng dục, hay sinh thành, thì làm sao mà đặt tên cho người khác được, xin quý lão tiền bối miễn thứ cho.
Đào Phụng Hòa cười, lên tiếng :
― Tiên sinh, tuy không có công sinh thành, dưỡng dục nhưng có công cứu sống từ trong trứng nước mà ra, công ấy đâu phải nhỏ, ví như mệnh trời cho một kiếp sống, hai điệt nhi họ Đào lớn số mới gặp tiên sinh, sự xuất hiện, không hẹn mà đến đúng lúc để cứu ngưới, thế mới gọi là khởi đầu cho hai kiếp sinh vừa chào đời. Xin mời tiên sinh đặt cho cái tên nào cũng được không bất nhất tốt hay xấu.
Hoàng Phi Khải thấy vậy cũng đành lòng nghe theo nói :
― Thưa quý lão tiền bối, thôi thì đành vậy, tại hạ nhận đặt tên cho song nhi nam tên là Đào Phụng Anh Hòa, nữ tên là Đào Trần Mẫn Trâm, tại hạ nhận song nhi này làm nghĩa tử, tương lai song nhi sẽ là nhơn chí thiện mỹ.
Đào Phụng Tiên vui mừng cười nói :
― Mỗ và Trần huynh đây năm nay đã ngoài sáu mươi, sống trên giang hồ cũng được bốn mươi năm, nay ở ẩn nơi này đã được hai mươi năm, không bóng người qua lại, chỉ trong gia đình mới biết lối ra vào, mỗ khao khát muốn biết duyên do nào gặp tiên sinh ở đây để rồi cứu nữ nhi của mỗ.
Đào Phụng Thương kể lại từng chi tiết cho nhị vị Nội tổ cùng Gia gia nghe đầu đuôi câu chuyện :
― Từ khi bắt báo gặp nạn, tiên ông xuất hiện, cứu sống và chữa những vết thương, rồi cho bào phục mới mặc vào. Phụng Thương, Phụng Hiệp ngỏ ý mời tiên ông về nhà dùng cơm, nhân tiện để Gia gia báo ân, Tiên ông từ chối không nhận ân, rồi chuẩn bị chào tạm biệt, còn hứa nếu có dịp gặp lại. Cuối cùng ân công nghe Thương nhi nói:– Hiện nay Mẫu thân đang bệnh "Thập tử nhất sinh", không biết Người đi lúc nào, Tiên ông nghe nói Mẫu thân bị bệnh mới chấp nhận về nhà.
Trần Bạch Phương ngẩn người ra gật đầu liên tiếp, giây lát rồi " ồ ồ …" thành tiếng nói :
― Thế thì chỉ một ngày mà tiên sinh đã cứu đến bốn sinh mạng, quả là ân sâu vô tận.
Hoàng Phi Khải nói nửa đùa nửa thiệt :
― Có lẽ tại hạ cứu đến năm người trong một ngày cũng nên. Đào Phụng Tiên đảo mắt một vòng,vội hỏi:
― Vậy tiên sinh còn đi cứu ai nữa ?
Hoàng Phi Khải thấy dung mạo của Đào Phụng Hòa cũng bị trúng độc như thúc mẫu, chàng trả lời :
― Tại hạ không cần đi xa, người ấy ở gần đây chỉ đôi bước thôi.
Trần Bạch Phương ngạc ngiên vội hỏi lại :
― Thế tiên sinh nói người ấy là ai vậy ?
Hoàng Phi Khải ngó Đào Phụng Tiên và Trần Bạch Phương trầm ngâm suy nghĩ trong lòng rồi xoay về hướng Đào Phụng Hòa nói :
― Chính là Thúc thúc Đào Phụng Hòa.
Đào Phụng Tiên rất kinh ngạc vội hỏi :
― Hài nhi bệnh chưa hết hay sao ?
Đào Phụng Hòa miễn cưởng tiếng nói nhỏ nhẹ trả lời :
― Thưa Gia gia, hài nhi bệnh chưa hết, mỗi ngày phải vận nội công chống lại từng cơn đau khó chịu, không để lộ ra ngoài vì sợ nương tử của hài nhi biết được sẽ bất an !
Hoàng Phi Khải biết được tình thâm nghĩa vợ chồng của Đào Phụng Hòa, chàng ôn tồn nói :
― Khi tại hạ vào đây là đã biết Thúc thúc có bệnh rồi, nhưng không đến nỗi như Thúc mẫu, bệnh này trị liệu không khó đâu. Thúc thúc hãy cầm lấy viên thuốc "Tiêu chướng phong" uống vào có hiệu nghiệm liền. Hoàng Phi Khải nói tiếp:– Thúc thúc mở bào phục trước ngực, tại hạ điểm có huyệt "Trung Đỉnh". Chàng liền búng ra "Phong tiên đơn", tức thì ám khí độc "Thu xa quỳnh" và "Thu xa châu" hạ hỏa xuống, cả thân người liền toát mồ hôi, từ lỗ chân long chảy ra như nước mưa màu Hạ. Không quá năm khắc Đào Phụng Hòa thấy thân thể khỏe khoắn, ông vận nội công thử vào lục phủ ngũ tạng thấy cảm giác thông đều, khí cũng hòa, tim không còn hồi hộp và người ấm áp. Đào Phụng Hòa chấp tay đa tạ Hoàng Phi Bằng, miệng cưới vui mừng nói :
― Gia gia, nghĩa phụ, quả là thuốc tiên, chỉ cần năm khắc mà thân thể của hài nhi đã bình phục, hình như còn tăng gia phần nội lực nữa là khác.
Đào Phụng Hòa mừng quá quỳ xuống bái tạ ân công.
Hoàng Phi Khải vội vã nhảy qua bên phải nói :
― Tại hạ không dám tiếp nhận, xin Thúc thúc đứng lên, đừng làm như thế tại hạ không dám thất lễ.
Đào Phụng Tiên thấy hoàn cảnh trong ngày diễn biến khôn lường nói :
― Trong cõi đời này có những lòng người xưng danh đạo cốt, nghĩa hiệp, anh hùng giang hồ, khó mà tìm được người đắc ý để kết giao. Chỉ thấy toàn là bá đạo, đâu đâu cũng có, bởi vậy sự đời như tuồng hát. Từ ngày sống ẩn ở trong động này với lão Trần Bạch Phương cố tri, chỉ biết luyện thương đao, kinh thư, mạch lý, dịch lý mà vẫn không trị bệnh được cho con của mình, hóa ra mỗ luyện để mua vui, hối hận nhất là để Túc˗phụ hiếu thảo phải qua đời, thảo nào tục ngữ có câu: "Đọc muôn vạn sách, không bằng đi một dặm đường". May mắn thay gặp được nhất biểu nhân tài, mỗ hân hạnh muốn kết nghĩa nhưng sợ người có hài lòng không ?
Hoàng Phi Khải khiêm tốn biết người biết ta thưa :
― Thưa nội tổ, lần đầu tiên tại hạ hành sử không thể nói là cứu người, bởi thế không lấy gì làm hãnh diện. Tại hạ cũng không thể đem thân này kết nghĩa quý lão tiền bối kính trọng, nghĩ rằng chỉ cần kết nghĩa với tứ điệt nam của quý lão tiền bối, như vậy cũng đủ rồi, tại hạ chỉ lớn hơn bốn tiểu đệ họ Đào vài canh.
Trần Bạch Phương cười nói theo :
― Tại hạ nghe lời nói của tiên sinh rất phải, quả là người đi muôn dặm đường lời nào cũng có đạo lý, thế mới gọi là thần dược thời nay, mỗ cảm kích lắm, tuy vậy mỗ thực tình ái ngại, âu cũng có nguyên do không xứng đáng để tiên sinh bận tâm, mỗ hiểu được người cùng thân phận, rất tiếc tứ điệt nhi của lão yếu kém trí lự, như học văn thì không biết kinh sử, học võ thì không người để bái sư, học kinh doanh thì không có vốn, chỉ học được chăn bò mà thôi, e rằng kết nghĩa này làm cho tiên sinh bận lòng .
Hoàng Phi Khải cười, để lòng không đồng ý cách nói của lão Trần, chàng thưa :
― Thưa nhị vị lão tiền bối và thúc thúc khi con người sinh ra là đã có trí lự, nhưng phát triển được hay không còn tùy hoàn cảnh, như hạt lúa rơi vào đất khô cằn thì không thể nào cho bông gié tốt, ngược lại rơi vào đất màu mỡ thì quý tiền bối nghĩ sao ?
Đôi mắt lão Trần ngó chằm chẳm vào lão Đào như có ý nói lên điều gì đó mà không để người khác biết được, một thứ ngôn ngữ bằng đôi mắt, rồi tiếng nhỏ nhẹ hỏi :
― Thôi thì lão đồng ý không thể luận thêm nữa, trước mắt bốn điệt nam họ Đào ra mắt sư huynh, làm lễ kết nghĩa trước tổ đường họ Hoàng, Đào, Trần, ngay từ hôm nay, đừng để chậm trễ, thần dược đổi ý nhé ?
Huỳnh Tâm
E-mail : huynhtamh4@gmail.com
Chương 8
Trời Ngập Như Quân Reo Tướng Thét
— Kiếm Khách Giang Nam có tất cả 20 chương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét