Kiếm Khách Giang Nam - Chương Mười Bảy ( Huỳnh Tâm )

Lòng Sống Chết Bừng Nổi Dậy

Công chúa Hương Trí Túc thấy Hoàng Thượng như vừa xuất hiện rồi biến mất. Còn sư phụ của Lữ Trường Gia không thấy đâu cả chỉ thấy trên trời có đôi cánh hạc bay. Linh tính của nàng vội hỏi Thái Tử Hồ :

― Thưa Gia gia điện hạ, Hoàng Nội Tổ đi đâu vậy, linh tính của nữ nhi hình như cưỡi hạc với một người, người đó là ai, thưa Gia gia ?


― Hoàng thượng đi thăm một hiền thần, cưỡi hạc thì thỉnh thoảng thôi, khi nào sư phụ của Lữ Trường Gia đến thì Hoàng thượng mới có dịp, đó là một thanh tú trẻ hơn Ái nhi một canh thôi.

Hương Trí Túc ngạc nhiên hỏi:

― Thưa Gia gia, sư phụ của Lữ Trường Gia trẻ như vậy à, hài nhi không tin đâu.

― Bởi vậy, Ái nữ ta làm sao mà tin được, nhưng Gia gia đã chứng kiến võ học của thiếu hiệp họ Hoàng rồi, nhất là hành động của thiếu hiệp còn trong sáng nữa đó, đất nước Nam Việt được thịnh vượng như ngày nay, tất cả do công lao của thiếu hiệp ấy, nói chung thiếu hiệp là một nhân tài văn thông võ lược.

Hương Trí Túc thắc mắc hỏi tiếp :

― Thưa Gia gia, vậy người thiếu hiệp này có những điểm gì đặc biệt và có tham vọng gì không ?

Thái Tử Hồ lại một lần nữa giải thích :

― Túc nữ nhi hỏi như vậy cũng phải, thiếu hiệp này căn cốt phi thường, tính hòa nhã, vui vẻ, độ lượng, cứu nhơn không hỏi tên họ, độ đời không hỏi gia phả. Thiếu hiệp không màng tưởng tham vọng, chỉ duy đức mà thôi, người thiếu hiệp thông minh xuất chúng, không kiêu căng, không khoe khoang tài năng, ít ai biết thiếu hiệp có võ học quán chúng, bởi tính rất nhún nhường, cõi đời này hiếm có mấy ai. Tuy nhiên thấy kẻ nào làm phản Nam Việt, có chứng án phân minh, tức thì kẻ đó bị trảm, dù đó là ai cũng không tha thứ. Từ lúc Gia gia biết thiếu hiệp đã chứng kiến ba lần xử án, lần thứ nhất trừ bọn mãi quốc Lê Vĩnh. Lần thứ nhì xử án thúc phụ Hoàng Phi Cương trưởng tộc họ Hoàng, người này chính Gia gia kết nghĩa huynh đệ. Lần thứ ba gần đây nhất là vụ Phùng Hưng một danh túc của thiếu hiệp, nguyên đệ nhất anh hùng Cần Lĩnh Nam, trên giang hồ nghe tiếng Phùng Hưng là phải kính trọng. Nói chung những tội nhân vừa rồi không tha thứ được, tội mãi quốc cầu danh, rước voi về giày mả tổ, hay những ai trợ trụ di ác đều xử theo minh bạch v.v...

Hương Trí Túc có ý không hài lòng tính tình của Hoàng Phi Bằng nói :

― Thưa Gia gia, người sư phụ trẻ này tính tình cứng như đá, làm việc kéo giãn mạnh dễ đứt, nếu nương tử của y phạm phải cũng đem ra pháp trường sao, hài nhi sẽ đi tìm y để lý luận về giá trị sống của mỗi con người.

Thái Tử Hồ khuyên bảo :

― Ái nữ chưa bao giờ đối phó với kẻ làm phản cho nên trách Hoàng Phi Bằng. Gia gia nghĩ rằng hài nhi chưa lịch luyện nhân tình thế cố thì không thể đối với người khác được, khi chạm sự thực, lúc đó mới thấy khả năng ứng sử thành hay bại là ở lý trí.

Ái nữ đừng đi tìm Phi Bằng, không có hy vọng đâu, tỷ như Ái nữ thất vọng có phải vô tình kết oán với người ta. Gia gia biết Phi Bằng vốn đa tình, lãng mạn với đời, sống vị tha nhân, chứ không phải vì một cá nhân thường tình mà nữ nhi suy nghĩ một chiều đâu. Thái Tử Hồ suy tư nói tiếp:– Đúng là "Nữ thập tam, nam thập lục" mù không sợ kiếm.

Hương Trí Túc có cái lý riêng nói :

― Thưa Gia gia, cho phép hài nhi ra ngoài tìm Hoàng Phi Bằng hạn kỳ ba tháng, nếu gặp tại Hoàng cung càng tốt, bằng không gặp ở đâu cũng được, hài nhi tìm người mà giang hồ khó gặp mới có ý nghĩa, dù nữ nhi có thế nào cũng không ân hận, xin Gia gia khai ân cho phép di thần, tạm biệt Gia gia, nữ nhi phải đi luyện võ.

Lữ Trường Gia và Hoàng Quốc Kỳ không ngần ngại đem hết tuyệt kỷ võ học truyền lại cho Triệu Hương Lý và Hương Trí Túc, đây cũng là tâm ý muốn hai công chúa trở thành trấn thủ Hoàng cung, hai nàng thụ hưởng được kiếm pháp họ Hoàng, Tuyệt Cao Kỳ Kiếm và Phong Tâm Kiếm. Ngoài ra còn luyện tập bộ pháp, quyền pháp, đặc biệt trong kiếm pháp họ Hoàng mà hai nàng tâm đắc nhất chiêu thức Tâm Bình Khí Hòa, chiêu thức này Hoàng Phi Bằng truyền thụ cho những cao thủ Cần Lĩnh Nam. Tuy nhiên nội ngoại công Hương Lý và Hương Trí Túc còn kém hơn Lữ Trường Gia và Hoàng Quốc Kỳ, nhưng đối với giới giang hồ là cao thủ.

Hương Trí Túc thông minh nhất, nàng thường bẽm miệng, bẽm mép lấy được lòng Lữ Trường Gia, Hoàng Quốc Kỳ. Hiện thời Hương Trí Túc có mục đích rõ rệt hơn, đi tìm tung tích của Hoàng Phi Bằng, qua sự hiểu biết một phần đời với những liên hệ chi tiết, như đất tổ họ Hoàng ở Quế Lâm, gia đình ở Cửu Chân, sinh hoạt Cần Lĩnh Nam, cũng như huynh đệ kết nghĩa. Hương Trí Túc tin tưởng không bao lâu sẽ tìm được sư phụ trẻ Hoàng Phi Bằng.



Vũ Đế xuất thành lần này di phục từ phàm ( giả thường dân ), trên cao nhìn xuống thấy giang sơn cẩm tú, gần nhất là dãy núi La Phù có tất cả bảy mươi hai ngọn lớn nhỏ hùng vĩ, đại hạc bay chưa đến động Lạc Việt trong lòng ông đã lo gần xa nô nức. Vũ Đế cảm xúc cảnh giới đất nước rộng thênh thang, tinh thần tự do khoan khoái hỏi :

― Điệt nhi xem thử trẫm có thể chọn một ngọn núi nào ở La Phù này làm Hành cung được không ?

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, dãy La Phù chỉ dùng được trận chiến hay làm Kinh đô tạm ẩn, nếu Phiên Ngung thành thất thủ nên rút binh mã về đây cố thủ sau đó mới hồi thành. Việt Tú Sơn là nơi du cảnh, cũng hợp lập đồ trận, Ngung Sơn mới là Hành cung, tuy một ngọn nhỏ nhưng là nơi rồng ngự, địa thế phong thủy an toàn, nhất thổ trong đại thất Long huyệt Giang Nam. Ngày trước Tiên tổ Hồng Bàng băng đồi qua núi đi khắp đại Giang Nam tìm đất Đại La mới trụ được mười tám đời Hùng Vương.

Nay Hoàng thượng điện hạ muốn khí thế phụ phần đem lại long khí cho Bách Việt, tụ thành một khối Lạc dân thống lãnh Giang Nam. Triều đại của Hoàng thượng trụ được, tuy có thăng trầm nhưng ít nhất trăm năm, con cháu tiếp nối nhiều đời sau, mỗi triều đại khác nhau hưng thịnh. Ngày sau Bách Việt truyền thiên thu vạn đại, còn hơn một tộc thị chỉ hưng thịnh trong thiên hạ được một đời rồng. Ngung Sơn là nơi thích hợp nhất để Hoàng Thượng lập Hành cung, chỉ cần lập đồ trận "Cửu Hoàng Tỉ Tổ" thì muôn thu không ai khám phá được, cũng là bí pháp tồn tại Bách Việt.

Vũ Đế khen :

― Trẫm nghe điệt nhi nói về kỳ bí của Long mạch rất hảo ý, ở đó cũng là nơi nối liền với Hoàng cung tiện lợi ngư giá và yên tĩnh.

Đại hạc bay vào chân núi gần đến động Lạc Việt.  Hoàng Phi Bằng ra hiệu cho đại hạc đáp xuống đất, chàng tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, đã đến nơi cung kính mời điện hạ rời đại hạc.

Năm con đại hạc bay vào không gian, Vũ Đế cùng Hoàng Phi Bằng đồng phi thân xuống đất, toàn cảnh rứng vắng ngắt, đại thụ che rợp bóng tinh rừng già, từ xa vọng lại tiếng thú rừng kinh dị, chim muông, công trùng thi nhau hót bốn bề rừng xanh.

Hoàng Phi Bằng tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, hãy cưỡi trên lưng tiểu thần.

Vũ Đế làm theo ý của Hoàng Phi Bằng, chân chàng búng nhẹ phi thân vào sương mây giá lạnh. Vũ Đế nghĩ thầm:– Trên lưng Phi Bằng với một sức nặng thế nầy mà vẫn phóng lên phơi phới, tốc độ gió "vù vù" bay vào thiên không, quả là một kỳ tài. Vũ Đế cảm nghĩ hơi lo, tay ôm thật chắc vào thân Hoàng Phi Bằng, chính mắt thấy bích núi đứng thẳng ngất trời cao vút, bốn phương mây xám bao phủ, hơi nước trong núi toả ra tạo thành nhiều lớp sương mù, bốn mặt núi non trông ngút mắt, thảo nào trong đêm sa xuống không khí lạnh, bích đá sương đọng thành tuyết, gió thổi từng chuỗi đập vào đá lâu ngày trắng như muối, ngoài ra còn có gió luồng từ Phương Bắc bào khuyết hai bên vách núi. Hai vành tai của Vũ Đế nghe gió thổi lạnh hơn cưỡi hạc, tiếng gió cứ mãi hú vang sau đôi chân, nếu không nhằm đây là pháo thăng thiên bay đến độ nào rồi phải nổ rơi xác hồng xuống đất, đủ chứng thực võ học thượng thừa của Hoàng Phi Bằng đã đến cảnh giới cao nhất.

Vũ Đế còn nhớ cách đây mấy năm về trước, chứng kiến Hoàng Phi Bằng cõng quân thần phi thân lên đỉnh Điện Thái Hòa, cao mấy chục thước đã phi phàm lắm rồi, lần này chứng thực cảnh giới bất lộ. Tiếng gió "vù vù" thổi mạnh, nắng phơi theo gió thổi càng cao, làm ù đôi tai, không còn định được chiều cao của núi. Một lần nữa Vũ Đế liên miên tự thầm:– Võ học của mỗ không phải tầm thường, thế mà nghe tiếng gió cũng phải để lòng lo ngại, phi thân của mỗ cũng không phải là tệ, ngay cả Hoàng Hạc cũng phải kém đến hai thức, nếu bảo mỗ tự phi thân lên núi đá đứng thẳng thì làm sao được ư ?

Đối với Hoàng Phi Bằng ra vào động là thường tình của mỗi ngày, chỉ một xoay mình nhẹ đã đáp xuống cửa động Đông, lần này Vũ Đế tưởng Hoàng Phi Bằng là thân đại hạc. Vào đến cửa động, Vũ Đế mới tin được an toàn, trên da mặt trở lại hồng hào.



Lần đầu tiên Vũ Đế âm thầm xuống tận Giang Nam, vào động Lạc Việt lúc ngoài vung trời vừa xẩm tối. Hoàng Phi Bằng tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, Long thể của điện hạ có thay đổi thì cho tiểu thần biết, tại sảnh đường này là ngự phòng, hy vọng Hoàng thượng thích nghi điều kiện sống cực khổ ở đây, tam khắc nữa tiểu thần sẽ trở lại, điện hạ an tâm.

Vũ Đế đưa mắt quan sát sảnh đường thấy trang trí khan trang, thầm nghĩ :– Đúng là quan sảnh của một thư sinh, nói :

― Long thể của trẫm tốt lắm, điệt nhi cứ từ từ còn sớm mà.

Hoàng Phi Bằng vào kho tàng đem ra những vật dụng trải trên phản gỗ lim, thay thế cho Long sàng, có cả long bào, long cổn, vương miện, long hài, nhiều vật dụng khác để Vũ Đế dùng trong ngày và qua đêm. Chàng không biết thứ gì vua dùng được, cứ thấy đẹp là ôm xuống sảnh đường. Chàng tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, những thứ này chỉ dùng qua đêm nay, sáng mai tiểu thần tìm những thứ mà điện hạ cần đến.

Vũ Đế thấy những vật này đã như nằm mơ trong mộng, vì tấm vải trải trên phản gỗ lim rất đặc biệt làm bằng tơ mướt mịn, mười hai lớp màu vàng, khi trải thẳng thớm nó tự phồng lên, khi ngủ tùy người muốn nằm ở lớp vải nào cũng được rất ấm và êm, có cả gối đầu cao. Vũ Đế hết ngạc nhiên này qua ngạc nhiên khác như Long Cổn để hành lễ đại Hoàng triều, thêu đến mười hai lớp rất cầu kỳ, đòi hỏi nghệ thuật thêu cao kỷ, thẩm mỹ thế mà ở đây cũng có, Long Cổn mỏng nhẹ màu vàng đậm, thêu nổi tứ quí long, lân, qui, phụng, đính kim cương ngọc bích vào bốn chéo góc lộng lẫy. Vũ Đế tự nghiệm:– Lạ thay nơi này là đâu hay là một cung điện của thế giới thực tại không phải là kỳ ảo chứ ? Đang bày ra trước mặt những Long bào xuân hạ hoàng đế, thêu nổi một con rồng lớn màu vàng, chân đỏ, đôi mắt sáng đính bằng kim cương ngọc phỉ, thân bào may các loại vải quý như đoạn bát ti tơ tằm, sa nam, the, vải quế, nhiễu, vân... viền tà bào màu xanh, sườn bào ngang gối, đai lưng vàng đắp nổi rồng trắng, lộng lẫy và tinh xảo, còn có Vương niệm vàng đính kim cương ngọc thiên thanh hình rồng, Long hài màu vàng nhật, thêu nổi con hạc màu vàng đậm, đính kim cương, viền hài đính ngọc thúy cát. Mãng lan bào thu đông hoàng tử, thêu bốn lớp rồng bốn móng, may bằng vải đoạn bát ti tơ tằm. Sa kép xuân hạ thái tử, làm từ các loại vải quý như đoạn bát ti tơ tằm, sa nam, the, vải quế, nhiễu, vân với những hoa văn tinh xảo. Vũ Đế gần như hoa mắt qua những bào phục nữ giới như Phượng bào thu đông Hoàng hậu. Sa kép xuân hạ quý phi, Mệnh phụ thu đông công chúa với những mũi thêu, đường chỉ, nét vẽ hết sức tinh vi rất quí phái. Cho đến hàng loạt vật dụng giá trị mà trong cung Nam Việt Vũ Đế chưa hề có, như chân đèn, khay ngự thiện, chén đĩa, ống đũa, hộp đựng trà, lư trầm bạc đồng chạm khắc tinh xảo cầu kỳ, không thiếu thứ gì cả, chính sập Vũ Đế đang ngồi cũng chạm trổ rồng chung quanh bốn phía, người bình thường không hề biết giá trị của sập này. Vũ Đế mới thấy vài trang phục giá trị, như hiện ra một kho tàng trước mặt. Vũ Đế để lòng chiêm ngưỡng không dám trầm trồ những vật dụng vừa thấy qua.

Hoàng Phi Bằng chuẩn bị Ngự thiện phòng mời Vũ Đế kiến giá. Chàng lo từng mọi vật dụng không thiếu thứ gì, bốn góc sảnh đường thắp đèn hồng lạp tỏa sáng. Bàn ghế bằng gỗ Tiểu đàn, đặc biệt bốn chân chạm kim qui, ghế chạm rồng, mặt bàn phủ một lớp nhủ vàng dày óng ánh, trên bàn còn có một đèn hồng-lạp lớn bằng bắp tay, chân mạ vàng. Buổi ngự thiện tối đơn sơ, như canh cá Hanh nấu với đậu hủ non gia vị hương ngọt, chua, cay, đắng, mặn đựng trong chén Ngọc Thúy Thanh mỏng. Cháo ẩn hoa nấm hương, rơm, thơm trầm đựng trong tô Ngọc Xuân Thanh. Cá chép nướng than hồng đựng trong đĩa vàng bạc, đủa ngà đầu nạm bạc.

Trong buổi ngự thiện đơn sơ, Vũ Đế hài lòng khẩu vị ngon, lạ miệng, tò mò hỏi :

― Những thứ vật dụng và thực đơn này mua ở đâu hả, Phi Bằng nhi ?

Hoàng Phi Bằng bối rối sợ không hợp khẩu vị tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, đây là những thứ có từ trong động Lạc Việt, tiểu thần chỉ mua đậu hủ ở một trấn gần đây, đem về để dưới giòng suối. Thực đơn này do tiểu thần làm, nay Hoàng thượng điện hạ kiến giá, hy vọng hợp khẩu vị .

Vũ Đế thực lòng khen :

― Quả là ở Giang Nam tuy đơn sơ nhưng gồm hết ưu điểm tám hương vị, nồng mà nhiệt, mặn mà hơi ngọt, ướp lại không ớn, cay lại không đắng, thảo nào ngự thiện hôm nay trẫm hảo .

Vũ Đế cầm lên chung Ngọc Trường Thúy uống một hớp rượu hỏi :

― Phi Bằng nhi, đây là loại rượu gì mà ôm cả vào lòng mùi vị Thanh Trà thơm, ngọt, cay ?

Hoàng Phi Bằng sợ rượu không hợp khẩu vị tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, tiểu thần kính dâng rượu Lãnh Hương Kỳ Nam mới có hương vị này.

Vũ Đế uống thêm một hớp nữa, cảm thấy rượu có hương vị thấm thấu lục phủ ngũ tạng, tuy đã vào bụng mà hậu rượu còn động lại quãng hầu, liền khen :

― Lãnh Hương Kỳ Nam là loại rượu rất tầm thường, hớp rượu thứ hai có mùi vị đặc biệt lạnh trước, ấm sau và cay dịu không nồng, Phi Bằng thường dùng loại rượu này hay sao ?

Hoàng Phi Bằng thuận miệng tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, tiểu thần không biết dùng rượu, khi Nội tổ đến động này, bảo tiểu thần đi mua một vại rượu để nhắp nhi với cá nướng, tiểu thần mua một lúc mười vại rượu, Nội tổ uống một còn chín vại, từ đó tiểu thần ngâm dưới đáy suối lạnh, có lẽ nhờ vậy mà rượu mới hóa ra mùi vị đặc biệt.

Sau buổi ngự thiện Hoàng Phi Bằng dâng trà, tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, tiểu thần kiến giá dâng trà Thất Đại Mạch Ngọc lấy từ cao lượng, như Châu Hoài Hương (long nhãn khô), Thượng Yên Quỳnh Giao ( hạt dẻ ), Ngọc Trong Hồ ( hạt sen ), Ngân Nam Thiên Phẩm ( trái giải khô ), Bữu Ngũ Thụ Ngân Hoàng ( bạch quả ), An Kỳ Trân Phẩm ( quả táo ),  Phùng Sơn Thúy Lạt Cô ( hạt thông ).

Hoàng Phi Bằng giải thích thêm:– Dùng thất đại mạch ngọc cao lượng mỗi ngày có công hiệu củng cố trường xuân, nếu như nấu cháo thì phải thật lâu mới có mùi vị còn có tên gọi là cháo Thất Bữu.

Thất Đại Mạch Ngọc cao lượng ăn khô và uống với trà Chánh Nam Đại Hồng Bào thì có công hiệu giải được mệt mỏi.

Hoàng Phi Bằng thấy Vũ Đế đang ăn và uống trà tâu tiếp:– Hoàng thượng điện hạ đã dùng qua Thất Đại Mạch Ngọc và trà Chánh Nam Đại Hồng Bào cảm nhận được hương vị khác thường không ?

 Vũ Đế cảm thấy sảng khoái suy nghĩ:– Thực đơn cho đến rượu trái cây, trà mỗi thứ có hương vị đặc biệt của nó, chỉ ở đây mới thực sự có hương vị khác thường trong thực phẩm bình thường, còn nói về trà Chánh Nam Đại Hồng Bào thì lần đầu tiên mới được uống, đúng là một hương vị cực phẩm khó tả cho vừa. Vũ Đế cảm xúc nói :

― Trẫm thấy chung trà này uống vào nhận được vị nhẫn mà ngọt, mùi vị rất thanh, nước nóng mà lại mát, có lẽ uống chung trà này từ từ mới thưởng thức hết sự tinh khiết của nó và toát ra được thú vị của tinh trà.

Hoàng Phi Bằng giải thích trà Chánh Nam Đại Hồng Bào cho Vũ Đế nghe :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, trà Chánh Nam Đại Hồng Bào tự sinh trên nham thạch, thụ khí thiên nhiên, sống ít nước nhờ sương gió tăng trưởng, kiên nhẫn là điều kiện tụ thành sự sống, mỗi gốc Chánh Nam Đại Hồng Bào lấy được một đọt trà, trên Chí Đầu lãnh nham thạch lấy được một cân trà, cho nên số lượng rất hiếm, có thể nói trà thượng phẩm.

Vũ Đế hài lòng một nụ cười ôn nhu, nói :

― Cơm canh, cháo nấm, cá nướng, mạch ngọc rượu, trà hương vị đậm đà đã xong, Trẫm lấy làm hoang lạc một đời nhất dạ đế vương.

Hoàng Phi Bằng ngó bên ngoài động thấy sương mù dày đặc, báo hiệu canh tý, chàng cung đôi tay vội chúc hạ Vũ Đế :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, đêm đã khuya tiểu thần chúc điện hạ gối cao ngủ yên và an lạc.

Vũ Đế chuẩn bị đi ngủ, suy nghĩ một ngày trôi qua lòng cảm xúc, mắt lim dim hồn đưa một quân vương vào mộng. Chân Vũ Đế bước đến vườn hoa vạn loại, đi đến một thị tứ dân cư sầm uất, phố xá lâu đài uy linh lộng lẫy, cảnh dân sinh hoạt thanh bình của rơi không ai lượm, cửa nẻo không ai cài, người người ăn mặc tươm tất, bào phục lụa là thanh nhả, tiếng cười chào kẻ lạ người quen rất lịch sự, cảnh sống an lạc.

Bỗng có tiếng của đại hạc kêu, Vũ Đế thức dậy mới biết trời đã sáng, không khí trong lành còn phất phới đâu đây mùi Dạ Lý Hương, chân bước rời khỏi Long sàng, thấy một bồn nước bằng Thúy ngọc, kệ khăn lau Long nhan bằng vàng, trên bàn hướng phải đã có một bộ kỷ trà chung Thanh ngọc, bình trà đang bốc khói từ xa mà đã phảng phất mùi thơm rất dịu của trà Chánh Nam Đại Hồng Bào, một khay khác cũng bằng Thanh ngọc rất mỏng tanh, chén bằng Thúy ngọc, trên khay áng chừng mươi bánh bao nhân thập cẩm và bánh bao chỉ nóng hổi, đũa bằng bạch ngọc, bát đĩa mỏng như vỏ trứng gà, buổi điểm tâm hôm nay thịnh soạn hơn cả Hoàng đế Trung nguyên.

Hoàng Phi Bằng ngồi bàn bên này rèm Hạt Châu, cũng ăn bánh bao, nhưng vật dụng chén bát bình thường như mọi Lạc dân thôn dã, Hoàng Phi Bằng vừa ăn lại nhớ ngày trước cũng nơi này đã tiếp Tiên tổ, nay chân dung xưa hiện về trong ký ức, tự nhiên nước mắt rơi lệ.

Vũ Đế tình cờ nhìn qua bàn thấy Hoàng Phi Bằng đang khóc, liền hỏi :

― Điệt nhi, có tâm sự gì mà phải rơi lệ vậy ?

Hoàng Phi Bằng đôi tay lau nước mắt tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, ngày đầu tiên Tiên tổ đến động Lạc Việt, nay đã trôi qua mấy thu, mà vẫn còn thấy chân dung của Người ở đâu đây !

Vũ Đế nhạy cảm, hiểu được hiếu đức của phi Bằng, nói :

― Thì ra là thế vì trẫm mà điệt nhi nhớ Tiên tổ chứ gì, đã trưởng thành mà còn rơi lệ có khác nào trẻ đòi sửa mẹ, dù Phi Bằng nhi rơi lệ thật nhiều cũng không gọi được Tiên tổ từ ba tấc đất nhảy lên được, thương yêu đó để trong lòng đừng cho ai biết, thế mới gọi là nam nhi chứ .

Hoàng Phi Bằng lau nước mắt tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ. Lạc dân tùng mệnh, nhưng Tiên tổ cùng thần có một chí nguyện, tuy hai mà cùng một điểm chung nhằm mưu cầu Bách Việt bần phú đồng hưởng. Tiểu thần làm sao mà an tâm được !

Vũ Đế nghĩ thầm:– Đúng là chàng trai đa cảm, ngoài võ học còn thông thái kinh thư. Nay nhân tiện tìm hiểu về tri thức hậu sinh, suy nghĩ gì về thời nhân chánh U Việt của Hoàng đế Câu Tiễn và nhân chánh của Nam Việt ngày này như thế nào, hầu bổ túc cho nhau, tin tưởng giải đáp lời hay của Hoàng Phi Bằng, hy vọng có ý kiến trung thực, hỏi :

― Quả nhân muốn biết điệt nhi luận thế nào về nhân chánh vào thời U Việt ?

Đúng lúc Hoàng Phi Khải vào động thăm viếng Hoàng Phi Bằng, gặp Vũ Đế cũng đang ở đây lấy làm ngạc nhiên, chàng cúi đầu thi lễ :

― Muôn tâu, Hoàng thượng bệ hạ, khanh ninh.

Vũ Đế ngạc nhiên không cũng kém, khi thấy Hoàng Phi Khải vào động nghĩ thầm :– Đương nhiên là phải phi thân mới vào động được, như vậy đã có bao nhiêu người họ Hoàng đến đây, liền hỏi :

    Khải nhi bình thân, hiền nhi cũng sống ở đây với Bằng nhi à ?

Chàng tự hiểu nguyên nhân Vũ Đế đến đây do Bằng hiền đệ mời, Tuy chàng biết mọi việc trong đông nhưng không bao giờ có ý kiến vì đó là sinh hoạt sở thích tự do riệng của mỗi người, trừ khi nào được ủy nhiệm và tùy sức để tham gia. Chàng tạu :

— Muôn tâu, Hoàng thượng bệ hạ. Thần dân không sống ở đây, khi nào có hẹn Bằng hiền đệ mới đến, thường là thăm sức khỏe, đôi lúc trao đổi văn võ học thuật và việc đạo hiếu hiền gia đình là chính.

Vũ Đế thấy huynh đệ họ Hoàng như một kho tàng kiến thức văn học, hỏi tiếp :

— Nhân đây, Trẫm muối biết về thời đại Hoàng đế Câu Tiễn, quý hiền nhi có những suy nghĩ thế nào ?

Hoàng Phi Bằng bổng tính đã tự nhiên, liền trả lời :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, thần dân và đại huynh Khải đã độc qua bộ kinh thư "Cửu Sách Đại Vương Câu Tiễn" của Hoàng đế Câu Tiễn.

Vũ Đế vui mừng đã có đến hai người luận về Bách Việt, rồi nói :

― Tốt lắm, có cả hai hiền nhi cùng luận về tầm nguyên Bách Việt, hai hiền nhi có biết trước đây nước U Việt và Ngô Việt ở xứ Triết Giang ngày nay không. Xưa kia Hoàng đế Câu Tiễn nhân chánh, Người đã làm rạng rỡ nước U Việt, đó là nguyên nhân ngày nay cần phải học của người xưa, lấy người sống trước chỉ dẫn người sống sau, như "Cửu Sách Đại Vương Câu Tiễn" làm quốc trùng sanh. Phi Bằng nhi luận thế nào về Cửu Sách.

Hoàng Phi Bằng hiểu ý của Vũ Đế, tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ. Hạ thần đề nghị đại huynh Khải trình bày về Hoàng đế Câu Tiễn, có lẽ Hoàng thượng bệ hạ sẽ thoả lòng hơn.

Vũ Đế cũng muốn biết kiến thức của Hoàng Phi Khải và suy nghĩa của một nho sinh,

    Tốt lắm, Hiền nhi tự tiện nào .

Hoàng Phi Khải, vốn không lộ văn võ, nhất là phát biểu một vấn đề gì đó, phải biết người biết ta. Chàng không thể từ chối được bởi trước mặt là Nam Việt Vũ Đế, cũng chính Bằng hiền đệ đề cử, trong nhà đã nói ra thì ngoài ngõ phải tin. Chàng tâu :

— Muôn tâu Hoàng thượng bệ hạ. Mười năm Hoàng đế Câu Tiễn làm tù nhân ở Ngô quốc, đến khi về lại cố hương Người hết lòng nguyện quốc trùng sanh, thực hiện "Cửu Sách" phục hận diệt Ngô :

Nhất sách triều cống mỹ nhân. Nhị sách ly giáng quân thần. Tam sách mua quan bán chức. Tứ sách lòng dân xa chúa. Ngũ sách gian thần tham ô. Lục sách triều cống. Thất sách cống phẩm, Bát sách U Việt nông tang điền thổ, Cửu sách U Việt quân binh hùng mạnh.

Ngoài ra Hoàng đế Câu Tiễn còn soạn ra hai bộ kinh thư, thứ nhất "Tâm, Thông, Trí, Đức, Dũng" lấy ngũ căn con người xây dựng đất nước và bộ "Bách Vật Kinh" chủ yếu canh tân trùng sanh đất nước, lấy nhân chánh trị quốc. Đạo dân là quí, xã tắc đứng thứ, vua là nhẹ và Bách Vật làm giáo dục thần dân.

Đạo nhân chánh còn có bốn điều : Nhất tuyệt tất khính. Nhị tuyệt tất nghiêm. Tam tuyệt tất đỗ ( giữ nước ). Tứ luật tuyệt tất diệt ( không để vong quốc ).

Bộ kinh còn dẫn diển tích : "Quốc khuynh khả chính, Quốc nguy khả an, Quốc đỗ khả khởi, Quốc diệt tất khả phục hồi". Đạo văn võ hiến phương sách, chiến lược, trọng đức pháp: Nhất viết Lễ, nhị viết Nghĩa, tam viết Liêm, tứ viết Sĩ.

Hoàng đế Câu Tiễn đem đến cho đất nước U Việt được hưng thịnh, nhồ Người biết phát động "Nông tang Điền thổ". Đặc biệt xuất chế sách "Thủ Chi Quân Điền Chế, Tam Trường Chế" trị chính phân minh bằng ba Hữu : "Hữu chinh chiến chớ cướp bóc. Hữu nạp cống phẩm chớ tham lam. Hữu sinh dưỡng chớ quên học".

Thời của Người hợp trị văn-hiến Bách Việt, xem Trời như Cha, xem Đất như Mẹ, đa thần linh, cho nên anh hùng Bách Việt nung nấu cái tâm tất thắng và Đạo tập chí hợp Bách Việt, ở điểm này thời của Người chưa đem lại kết quả. Nhưng thành công về mặc Võ nghiệp, đúc rèn binh khí, huấn luyện sĩ tốt, bổn phận con dân gữi và dựng nước thể hiện rất rõ. Về sản xuất tích sản, súc vật, lương thảo, ngũ kim, lập kho đụn cứu tế, từ đó dân giàu nước mạnh .

Thời U Việt nhờ có đấng minh quân Câu Tiễn tạo nghiệp thái bình. Ngày nay không hẳn như thế, bởi chế sách tùy thời thế, địa lý, nhất là biết đẩy cũ đi dựng thành mới, kẻ cũ không hợp thời, kẻ mới sáng tạo, tinh hoa. Thời đó Hán học cũng có cặn bả, Nam học cũng có sở trường, cho nên loại bỏ cặn bả chọn lấy tinh hoa, gây lợi, trừ hại. Người đời có nói: "Bảo cổ canh tân". Tuy U Việt là một quốc gia hùng mạnh Trung Nguyên nhưng trị vì được ba đời. Đại Vũ Tiên Vương lập ra nước U Việt, truyền ngôi cho Câu Tiễn hiệu là Vũ Vương, đến đời Lục Ảnh thì U Việt  "Quốc đỗ khả khởi, Quốc diệt tất khả phục hồi".

Từ đó Sở dĩ U Việt bị quốc phá bởi những yếu tố, tranh dành quyền lực, minh hữu trung trực thay đổi, một khi chuyên quyền thì khó mà trị nước, vốn lụy ái nữ sắc, không còn thời gian lo việc nước và triều chính xao lãng. Nói về bảo vật U Việt còn lưu truyền đến ngày nay phải kể đến kho tàng tọa lạc Nam Việt. Ngoài ra còn có bảo vật Việt quốc, Hải Hồng Đậu Châu dùng để khử nước, hai thanh kiếm Đại Vũ và Vũ Vương vẫn còn tại thế. Đặc biệt vào thời đó nghề luyện kim rất quí trọng. Nam Việt Vũ Đế ngồi yên lặng nghe Hoàng Phi Khải luật một hơi về triều đại Hoàng đế Câu Tiễn. Vũ Đế hài lòng và muốn biết ý riêng của Hoàng Phi Khải về thời nay, Vũ Đế hỏi :

― Đó là những chế sách ngày xưa của thời Hoàng đế Câu Tiễn đã thực hiện có việc được việc không, còn ngày nay hai hiền nhi luận thế nào ?

Lần đầu tiên Hoàng Phi Bằng nghe Hoàng Phi Khải luận rành mạch từng chi tiết về Hoàng đế Câu Tiễn, trong lònh chàng cũng khao khác Nam Việt như U Việt ngày xưa. Chàng thẳng thắn tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng bệ hạ, lịch sử ngày xưa, ngày nay và hoàn cảnh khác nhau nhiều lắm. Hoàng đế Câu Tiễn vừa bị mất nước, vừa bị tù đày với đôi bàn tay trắng. Người chấp nhận chịu khổ nhục để sống chờ ngày bảo quốc trùng sanh, đó là ý chí lớn của người phi thường, hai nữa người còn có một nghĩa đệ Phạm Lãi nguyên quán nước Sở văn võ song toàn, trí lự kiên cường, chính là động lực thúc đẩy tinh thần chấp cánh cho Hoàng đế Câu Tiễn. Sau khi huynh đệ Hoàng đế Câu Tiễu, Phạm Lãi về được U Việt, lập tức viết bộ kinh thư "Tâm, Thông, Trí, Đức, Dũng" trong bộ kinh có hồi "Cửu Sách" nhằm tóm thu nước Ngô, người đời còn gọi là "Cửu Sách Câu Tiễn".

Một đất nước từ nô lệ, không tài sản, trở thành hùng cường, thịnh vượng, thanh bình và còn lấy được nước Ngô nữa, bởi do chí lực và hận quốc mới lấy quyết định thành công. 

Còn ngày nay Nam Việt bao la rộng lớn hơn ngàn lần U Việt, thời đại được ưu đãi hơn, trước mắt hùng mạnh qui nguyên tôn tộc Bách Việt về một mối, đời sống thanh bình. Quân thần, tướng sĩ, Lạc dân trên dưới một lòng xây dựng đất nước đã thực sự giàu mạnh, nhờ thực hiện chế sách "Nhân sinh" của Hoàng thượng bệ hạ. Nếu nói rằng hơn "Cửu Sách Câu Tiễn" của ngày xưa thì không đúng lắm, mà phải nói rằng ngày nay kém xa tiền nhân mới đúng. Nhưng rất tiếc Hoàng thượng bệ hạ lại ở vào thế kỷ nhị hạc, nếu mà trẻ bốn mươi canh nữa thì chế sách "Nhân sinh" được lưu truyền muôn đời.

Vũ Đế vẫn yên lặng để tìm hiểu suy nghĩ của Hoàng Phi Bằng như chính tâm nguyện của lòng Lạc dân nói ra.

Hoàng Phi Bằng suy nghĩ một hồi nói tiếp:– Muôn tâu Hoàng thượng bệ hạ chế sách "Nhân sinh" mới thực hiện được một phần trăm mà đất nước đã khởi sắc. Nếu bây giờ có một nhân vật uy vũ, chí dũng thay thế vào việc làm của Tiên tổ Hoàng Hạc thì đương nhiên Hoàng thượng điện hạ tóm thu được phương Bắc.

Vũ Đế trong lòng cũng nao nao và hiểu được suy nghĩ tham vọng của Hoàng Phi Bằng. Ông thở dài tự thầm:– Tiếc cho đời người không qua khỏi số trời đã định, anh hùng nào cũng để lại thế gian ít nhiều việc làm chưa hoàn mỹ vẫn vô khuyết trong tự nhiên ! Vũ Đế cười "ha hà…" nói :

― Quả nhân vui mừng có được một khí khái Võ học và một đảm chí Văn học, như hai hiền nhi đây, những suy nghĩ thành thực có tế nhị và thực thế xã hội, hai hiền nhi động não vì thiên hạ rất nghiêm chỉnh, như sách có câu: "Nửa đêm trước nghĩ cho người khác, nửa đêm sau nghĩ cho mình". Nam Việt ngày nay có vạn anh hùng, tại sao không có ai đủ khả năng cộng gánh vác chế sách "Nhân sinh" ?

Hoàng Phi Bằng hiểu được lời nói của Vũ Đế như than vãn, liền tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, việc này chỉ có điện hạ mới thực hiện được, còn ngoài ra không ai có khả năng.

Vũ Đế ngạc nhiên hỏi :

― Phi Bằng nhi tại sao ?

Hoàng Phi Bằng tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng bệ hạ "Cửu Sách Câu Tiễn" cấu tạo bởi thù hận, trí tuệ, tinh lực, đau khổ, mồ hôi kết thành gia tài U Việt, còn chế sách "Nhân sinh" là tự nguyện dâng hiến, bởi thế mới chính Hoàng thượng bệ hạ đứng vào vị trí của Hoàng đế Cân Tiễn mới thực hiện được tâm huyết "Nhân sinh". Không thể giao cho bất cứ ai vì lúc nào họ cũng ỷ lại của trên trời rơi xuống, kết cuộc họ sử dụng bất minh, tài sản này sẽ tự thành nước chảy ra biển, chỉ có Bệ hạ mới thực hiện được mà thôi, hai nữa Bệ hạ là chủ nhân chế sách "Nhân sinh" đã từng trân quí nó như một phép lạ, nếu nay giao cho một người không biết trân quí nó, đương nhiên sẽ bay như mây khói. Khác nào cha mẹ buôn thúng bán mẹt, tảo tần tháng năm, hà tiện mới có một gia tài lớn, sau khi thác, những người tranh đoạt tài sản. Kẻ dùng vào việc tửu sắc, trụy lạc, nuôi môi hồng má phấn. Kẻ canh ba giàu canh năm nghèo, dù cho tài sản cao như núi cũng phá sản, kết quả những người con thành kẻ trắng tay ! Đúng là nhà vô phúc, con cái tàn xác lẫn nhau do tài sản trên trời rơi xuống, mối họa khôn lường đó Bệ hạ .

Hoàng Phi Khải xin phép :

— Muôn tâu, Hoàng thượng bệ hạ, vạn tuế, vĩnh triều cương, Long nhãn gửi xa biển rộng, trời cao. Thần dân diện kiến thiên nhan kỉnh một lòng đa tạ thánh ân. Thần dân xin phép lui gót, đi thăm một bằng hữu ở xa.

          Vũ Đế gật đầu tỏ ý hài lòng, chưa kịp hẹn ngày tái ngộ, Hoàng Phi Khải đã phi thân ra khỏi cửa động. Vũ Đế mừng thầm:– Hoàng Phi Bằng lý luận cũng khá, không thua gì Hoàng Phi Khải, mỗi người suy nghĩ khác nhau nhưng cùng một hướng. Ý của hai trẻ họ Hoàng tìm người để trao kho tàng và tin người biết giá trị tài sản, sử dụng đúng hữu ích.

Trong động chỉ còn lại Vũ Đế và Hoàng Phi Bằng, ông khen :

― Trẫm khen, hai hiền nhi có tài thuyết phục Trẫm, nhân dịp này Trẫm muốn yết kiến sư phụ của điệt nhi được không ?

Hoàng Phi Bằng thấy cả buổi sáng nay ở trong sảnh đường bàn luận đã lâu, muốn đưa Hoàng thượng ra thung lũng để đổi không khí, tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng Bệ hạ, thần dân kính cẩn mời Bệ hạ ngự lãm vườn cây ăn trái trong động.

Vũ Đế vốn đã để lòng cũng muốn tìm hiểu nơi ăn ở của Hoàng Phi Bằng. Ông gật đầu đồng ý nói :

― Phải lắm, Trẫm cũng cần ra ngoài để hưởng không gian, tiên cảnh ở đây.

Hoàng Phi Bằng tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng Bệ hạ, kính cẩn mời rồng dời theo thần dân.

Rời khỏi sảnh đường đi qua hai bích đá ra đến thung lũng, Vũ Đế và Hoàng Phi Bằng cùng thấy một bóng trắng từ trên cây đào chín hồng, phi thân xuyên qua và biến vào bên suối Nam.

Nhãn lực Hoàng Phi Bằng thấy rất rõ đây là một con hầu màu trắng, không lấy gì làm lạ, chàng tự hứa hẹn mỗ sẽ tìm hầu làm bạn.

Đối với nhãn lực của Vũ Đế thì rất lạ và bí ẩn, bởi thấy một hình bóng màu trắng không thấy chân dung phi thân, kéo thành một vệt xẹt qua trước mặt. Vũ Đế nghĩ thầm:– Trẫm ra đây bất ngờ quá cho nên sư phụ của Hoàng Phi Bằng không tiện tiếp, thôi thì tự lòng xin lỗi với người.

Từ đó Vũ Đế để lòng không hỏi về sư phụ của Hoàng Phi Bằng nữa. Quang cảnh u nhã ở đây đúng là cảnh tiên, Vũ Đế hình dung như đã đi qua một lần không biết lúc nào và địa danh nào. Không khí trong lành hơn trần thế, hương vị đặc biệt từ vườn cây tỏa ra mà ông chưa hề thưởng thức, riêng về cỏ cũng cho mùi thơm rất dịu, muôn màu huyền quang tạo cảnh thiên nhiên đẹp, nói chung vạn vật ở đây khác ngoài đời, trong lòng ông tự hiện sống lại cảnh tiên giới của đêm hôm qua, bây giờ mới chính thức hiện lại. Vũ Đế nghĩ thầm:– Trong hư đêm qua chính là cái thực của hôm nay.

Vũ Đế bước đến gốc đào, đưa tay cao hái một trái ửng hồng vừa ăn hương vị thơm phức như tối hôm qua, vườn cây ăn trái trong thung lũng cũng đủ tạo thành cảnh giới kỳ ảo, cây trái đang nặng trĩu quằn cành như mãng cầu, soài, mít, mận, cam, bưởi, chanh, dừa, đu đủ, thanh long v.v...

Vũ Đế đến bờ suối Tây, ngồi trên tảng đá ăn trái thanh long chín đỏ, ngọt lịm hợp khẩu, nhìn dưới suối có nhiều loại cá tung tăng xem rất vui lòng đẹp mắt, rồi đi dạo cảnh ngoài vườn đến trưa không biết chán, tâm thần thư thái, lòng ông tự hẹn ngày về triều trước nhất phải dùng công đoái, dùng lý giải, dùng đức phục.

Hoàng Phi Bằng chân bước nhẹ đến tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng Bệ hạ, đã trưa đúng thời ngự thiện mời Bệ hạ vào sảnh đường.

Vũ Đế mải mê ngoài thung lũng sống với thiên nhiên, quên cả dùng trưa vì ông đã ăn vài trái đào, thanh long, thêm một trái đu đủ chín cây, xem ra cũng no. Vũ Đế tâm trí đang hồi lại ký ức:– Nhớ lại ngày còn thơ ấu, tự tay bổ trái đu đủ chín để ăn, bên cạnh còn có mẫu thân cùng ăn, bà khen ngon. Ngày đó sống rất an lành, nay trôi qua vùn vụt xem ra đã hết tuổi đời người !

Hoàng Phi Bằng tâu lần thứ hai :

― Muôn tâu Hoàng thượng Bệ hạ, trời đã trưa kính mời điện hạ vào sảnh đường ngự thiện.

Sau khi nghe Hoàng Phi Bằng tâu, tâm thần Vũ Đế rời xa cảnh tiên giới, hồi về thực tại nói :

― Phi Bằng nhi bình thân, Trẫm đang chuẩn bị vào đây.

Vũ Đế đi vào thấy trên bàn ngự thiện thực đơn sơn khê mười hai món, đựng trong những chén đĩa nhỏ đồng bộ bằng ngọc Thủy Thúy, chỉ ba gắp đủa là hết thức ăn, một chung hà thơm dịu đúng là Quỳnh tương, đôi đũa ngọc Bạch lý, một chén Ngọc Thúy.

Hoàng Phi Bằng ngồi ăn riêng một bàn kế bên cũng những thực đơn sơn khê ấy, nhưng chén, đũa, đĩa dùng bình thường như hôm qua.

Hôm sau Vũ Đế hỏi Hoàng Phi Bằng :

― Trẫm muốn sinh hoạt tự nhiên trong động, Bằng nhi xem có được không ?

Hoàng Phi Bằng tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng Bệ hạ, trong động rất an toàn, Bệ hạ tự nhiên và tùy ý, tinh thần thoải mái theo sở thích của Bệ hạ.

Vũ Đế ra thung lũng thấy cảnh trí nơi nào cũng đẹp, tuổi hồn nhiên lại hiện về, cùng lúc ông đứng trước suối có ý định thử làm một ngư phủ già, ông tìm được một nhánh cây khô nhỏ dài độ hai thước, rút một sợi tơ từ bào phục dài hơn ba thước và lấy thiết khí trong bào phục làm lưởi câu, chỉ trong vài khắc trên tay Vũ Đế cầm một cần câu, sau đó đi đào Trùng đất làm mồi câu cá, người hồn nhiên cảnh sống thiên nhiên mở cửa lòng. Vũ Đế ngồi bên bờ suối phía động Nam câu cá. Tựa hồ suy nghĩ đó đây:– Nơi này đúng là Huỳnh sơn kỳ vĩ, cổ tùng to lớn, suối reo, mây trời biến hóa khắp nơi, ngoài không tận cùng. Cá cắn câu liên tiếp, tay giật cần không thấy cá, tiếp tục thay mồi, nhưng cá không mắc câu, bởi thiết khí thẳng không có ngạnh. Ông bật tiếng cười:– "Ha hà…" ngư ông lương thiện ngồi đây gần hết buổi mà vẫn cần câu không khí, đúng là Khương Tử Nha ngày xưa, bất ngờ vài khắc sau, câu được một con cá Lý vàng nặng hơn ba cân. Vũ Đế lại cười tiếp "ha hà" :– Đúng là con cá khờ hết số. Vũ Đế đi tìm củi khô nướng cá, cá chín ăn vào hương vị ngọt, thơm, thanh, tươi lần đầu tiên hưởng được lạc thú sơn dã. Sống ở đây đúng ba ngày tận hưởng thiên nhiên và an lạc, có những con hạc biết Vũ Đế, chúng hồn nhiên tung tăng chạy đến xòe đôi cánh như chào hỏi, nó còn biết hái đào dâng cho Vũ Đế. Ông tự nghĩ lòng:– Thảo nào sư phụ của Hoàng Phi Bằng vô hình vô ảnh, chỉ một thoáng qua thay lời chào hỏi, âu cũng vì hai thế giới thực hư không giao tiếp được, thế cũng đã mãn nguyện lắm rồi .

Vũ Đế đưa tay lên vuốt nhẹ mái tóc Hoàng Phi Bằng nói :

― Trẫm muốn hôm nay làm lễ cáo Trời đất và đa tạ sư phụ của hiền nhi, nhằm thay mặt Quốc sư Hoàng Hạc nhận lãnh trách nhiệm "Nhân sinh" được không ?

Hoàng Phi Bằng vui mừng tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng Bệ hạ, lễ cáo Trời đất. Thần dân nghĩ không cần thiết lắm. Hoàng Phi Bằng tâu tiếp:– Ngày trước Tiên tổ đã trình tấu lên Bệ hạ, về nghi lễ cáo Trời đất và đã có lời đa tạ sư phụ ở đây, hôm nay Bệ hạ là con Trời chỉ cần để lòng thực hiện kế sách "Nhân sinh" đem lại phúc lạc cho muôn dân bá tánh đó là ý Trời đã chứng.

Vũ Đế chấp hai tay xoay thân rồng hướng về Đông, đôi mắt ngó lên Trời khấn :

― Quả nhân xin hứa, Tiên tổ trên Trời chứng giám cho lòng thánh vì xã tắc, thực hiện đúng như sở nguyện .

 Hoàng Phi Bằng không còn ngại chấp tay tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng Bệ hạ, ngày mai một phần kho tàng sẽ theo Hoàng thượng về Hoàng cung.

Vũ Đế vui mừng khôn xiết nói :

― Trẫm chính thức nhận trách nhiệm của Quốc sư Hoàng Hạc, đúng là một chuyến đi mưu cầu Nam Việt thịnh vượng đã thành hiện thực, Trẫm đích thân hành sự làm đẹp cho đời, mong mỏi hôm nay và mai sau Nam Việt được Quốc phú dân cường, hơn cả Trung nguyên, người Hán không còn xem thường Bách Việt, đó là ước nguyện từ lâu của Trẫm.

Hoàng Phi Bằng không chần chờ hay ái ngại liền tâu:

― Muôn tâu Hoàng thượng Bệ hạ, thần dân bạo phổi táo gan, muốn biết gia cảnh thời niên thiếu mà thiên hạ đồng rằng Hoàng thượng không phải là người Hán bởi vậy tiện thần không biết thực hư thế nào ?

Vũ Đế tình thực ôn nhu tỏ bày :

― Đời riêng tư của quả nhân ở vào thuở ấu thơ và phần gia thế chỉ nghe Mẫu thân nói mà không chính mắt thấy sự thật bởi lúc ấy còn quá nhỏ. Mẫu thân của quả nhân họ Lý tên Ánh Hoa, trước khi qui tiên nói rất nhiều về thân thế của quả nhân, nhờ vậy mới biết gia phả đời trước, di ngôn của Mẫu thân như thế này:– "Hài nhi phải nhớ về cội nguồn Lĩnh Nam, nơi ấy chính đất lập nghiệp sau này của hài nhi, Tổ tiên U Việt là một trong dòng dõi chính thống Bách Việt. Lúc hài nhi chào đời trong gia phả viết Cao Tổ Phụ Tiêu Hoàng công thần nhị  phẩm triều Đại Vũ, cùng triều Tằng Tổ Phụ Tiêu Tân làm chức quan Thái Phó, đến đời thứ ba Tổ Phụ Tiêu chức phó tướng quân triều Hoàng đế Câu Tiễn, đời thứ tư Thân Phụ hài nhị tên Tiêu Thanh, văn võ song toàn, thời bình phẩm tước Học Sĩ đại thần, thời loạn nguyên sói tướng quân triều Vũ Vương .

Khi xưa nước U Việt bị Sở thôn tính, Gia gia hài nhi cầm binh đánh Sở rồi tử trận, cả họ ly tán, khi ấy hài nhi mới được chín ngày. Sinh ra đúng vào thời loạn chiến tranh triền miên, Mẫu thân buộc lòng phải bồng bế hài nhi chạy theo dòng nước vong quốc, xuôi về hướng Nam, không ngờ vào cương giới Sở˗Hán lại cũng gặp chiến tranh ác liệt hơn, ở nơi này kẻ chết người sống không còn phân biệt Việt, Hán, Sở địch hay thù.

Mẫu thân không còn ai để gọi hai tiếng thân nhân, lưu lạc đó đây trên đất Hán hơn hai tháng mà vẫn chưa về Nam được, lại bị mang bệnh nằm bên lề đường, lúc này bầu sữa nuôi hài nhi cũng cạn dần và những gì có trước khi ra đi cũng đã hết sạch, khi ấy Mẫu thân chỉ còn lại nụ cười bình an của hài nhi, chính nụ cười này là niềm hy vọng để sống, hài nhi là hạt châu cuối cùng của nhà họ Tiêu !

Vài ngày sau có người buôn tơ lụa họ Triệu ở đất Chân Định đem về nuôi, từ đó hài nhi mang họ Triệu tên Đà. Hài nhi có lưu họ Tiêu trên vai Tả, còn trên vai hữu thì lưu U Việt, nay vẫn còn đó".

Ngày tháng trôi qua đưa đẩy Trẫm đến đất Lĩnh Nam làm tướng quân, không ngờ quả nhân nhớ lại di ngôn của Mẫu thân, khắc cốt ghi xương vào thân thể, thế là gặp được Lạc Việt, trong ấy có cả người U Việt. Lúc Quả nhân vào đến thành Phiên Ngung đã có ý định tìm mọi cách qui nguyên Bách Việt. Mỗi khi Quả nhân có ý định qui nguyên Bách Việt thì có tiếng văng vẳng lời dặn dò của Mẫu thân, thôi thúc ý chí lập quốc Nam Việt. Sau khi thành công Quả nhân phong Mẫu thân tước hiệu Hoàng Thái Hậu Lý Ánh Hoa thờ phụng Người như một đấng thiêng liêng của họ Tiêu.

Bài vị của Cao Tổ Phụ Tiêu Hoàng, tước hiệu U Việt Hoàng Cao Đế. Bài vị Tằng Tổ Phụ Tiêu Tân tước hiệu U Việt Tân Tằng Đế. Bài vị Tổ Phụ Tiêu Ưng tước hiệu U Việt Ưng Tổ Đế. Bài vị Thân Phụ Tiêu Thanh tước hiệu U Việt Thanh Phụ Đế.

Quả nhân trị vì Nam Việt đã sáu mươi năm nhưng không để lộ huyết thống Lạc Việt vì muốn bảo tồn Nam Việt. Từ bao lâu nay người Hán muốn biết huyết thống của Quả nhân, đến nay họ vẫn kết luận là người Hán. Cũng may Nam Việt thanh bình là do người Hán không phát hiện gia phả của Quả nhân, một ngày kia Quả nhân qui tiên, dương nhiên đem theo lời di ngôn của Mẫu thân chôn trong lòng, đó là gia tài riêng đối với tình tự của một Lạc dân hiếu thảo, còn những thứ khác Quả nhân để lại cho đời phán xét. Nếu tâm ý có nói ra là chỉ để cho Quả nhân nghe mà thôi !

Hôm nay Phi Bằng nhi hỏi về thân thế, dĩ nhiên lòng chỉ mở ra cùng tâm đắc, bởi thế sách có câu: "Được lời như cởi tấc son" Quả nhân gửi sự sâu kính của một đời người nơi Phi Bằng nhi đó. Cũng để  nhắc nhở Bằng nhi nhớ "Bách thiện hiếu di tiên".

Nhân tiện Vũ Đế cho Hoàng Phi Bằng xem chữ Tiêu và chữ U Việt trên đôi vai. Chàng ngạc nhiên thấy mồn một, đôi mắt không thể hoa, đúng là họ Tiêu, dân U Việt không sai, chữ xăm bằng mực Hắc-dương, tuy hơi nhòa theo tháng năm thân thể già nua, thế mà nét chữ vẫn còn đẹp, hùng chí, mai lệ, phóng bút tiêu sái, đảm khí nằm dưới lớp da nhăn nheo thấy rõ.

Vũ Đế nói tiếp :

― Ngày nay thân thế của Quả nhân chỉ có Phi Bằng nhi biết trọn vẹn, ngoài ra không có người thứ tư, cho nên Quả nhân biết chắc chắn họ Triệu không phải là huyết thống của quả nhân.

Hoàng Phi Bằng vốn thông minh, giàu tình cảm, khi nghe Vũ Đế trút hết bí sử đời mình, chàng hình dung một bí sử, rồi tự suy nghĩ:– Phải chăng từ cổ vản kim lai, chỉ có một vị minh quân này sao ? Nỗi lòng chàng cảm động về quá khứ của một Hoàng Đế đương thời cũng có tư khổ bình thường. Chàng xúc cảm nước mắt chảy trên đôi má da mịn hồng, trong cổ họng nấc thành tiếng "ắc ắc" đúng là cảnh đời quá trêu cợt thử thách ẩn trong một Hoàng đế.

Vũ Đế thấy vậy ôn tồn hỏi tiếp:– Quả nhân làm cho diệt nhi khóc phải không ?

Hoàng Phi Bằng lấy vạt bào lau nước mắt tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng Bệ hạ, mỗi đời người có riêng cảnh sống, nhưng cảm xúc được là nhờ tình người biết chia sẻ quá khứ, biết rung động trong mọi khổ đau để tìm đến hạnh phúc, cũng như Bệ hạ tìm hạnh phúc cho muôn dân, mà phải trải qua mọi cảnh sống không ai hiểu thấu. Bệ hạ thực hiện đúng lời Thánh của Tiên Mẫu từ đó trui luyện trở thành một Hoàng Đế Nam Việt ngày nay. Phi Bằng nhi xúc động và hãnh diện có được một Hoàng đế trong lòng của Lạc dân.

Vũ Đế khen thầm Hoàng Phi Bằng:– Rất tiếc không còn thời gian để chiêm ngưỡng một thiếu niên họ Hoàng.



Sáng hôm sau Vũ Đế cùng Phi Bằng về Phiên Ngung thành, với năm đại hạc chở theo ngũ kim, chàng còn tặng Vũ Đế cặp kiếm Thanh Long, Huyết Hổ. Vũ Đế cùng chàng đến Ngung Sơn lập đồ trận "Cửu Hoàng Tỉ Tổ" từ nay lưu trữ ngũ kim tại Hành cung Ngung Sơn, cũng là nơi liên lạc bí mật với Hoàng Phi Bằng.

Vũ Đế liền hạ chỉ :

― Phi Bằng hiền nhi từ nay chính thức thiết lập biệt điện Hành cung tại Ngung Sơn, cũng là nơi phát động Phú Quốc cho dân đồng hưởng.

Hoàng Phi Bằng vui mừng sự quyết định của Hoàng thượng, chàng tâu :

― Lạc thần, tuân ngự mệnh .

Nghe qua tưởng Hành cung kiến trúc đồ sộ, uy nga, tráng lệ, rực rỡ, không ngờ biệt điện là một căn nhà lợp trang vách đất ba gian chữ nhất, cảnh sống u nhã như một mái ấm gia đình Lạc Việt tọa lạc Ngung Sơn, về những vật dụng sinh hoạt hằng ngày cũng như trang trí do Hoàng Phi Bằng lo tất. Cũng đến lúc chàng từ giả Hoàng thượng tâu :

― Muôn tâu Hoàng thượng Bệ hạ, trăm câu ngàn lời nhập lại chỉ một câu kính cẩn vấn an, Hoàng thượng bảo trọng.

Chàng xoay mình phi thân mất dạng, Vũ Đế rất hài lòng cử chỉ của chàng thanh niên trẻ kỳ tài, giúp ông khởi động mạnh trị chánh triều đình, từ Ngung Sơn là nơi truyền chỉ dụ đến Lạc dân, khuyến khích thi đua xây dựng đất nước phú cường, hai tháng sau thấy rõ sự phát triển thịnh vượng từng ngày, trên mọi mặc cả nước Nam Việt.

Nội triều đình văn võ không ai biết chế sách thi đua xây dựng Nam Việt xuất phát từ nơi nào. Đôi khi họ hỏi nhau ai là Quốc sư ngày này, chỉ biết mỗi ngày đất nước thịnh vượng mười lần hơn thời Quốc sư Hoàng Hạc, riêng Thái tử Hồ chính thức điều động thân tín triều đình nắm chủ lực Bát sách "Nhân sinh". Đến nay Bát sách đã phát triển thuận khắp cả Nam Việt.

Lúc này Vũ Đế và Thái Tử Hồ nhớ Hoàng Phi Bằng, muốn gặp để chia sẻ thành quả, nhưng không bao giờ gặp được, chỉ thấy đại hạc chở ngũ kim đến, rồi bay về hướng Nam.



Hầu như vài ngày có một con hạc nhỏ đưa tin về cho Hoàng Phi Chỉnh, lần nào cũng cùng một nội dung vấn an chỉ có khác viết ngày tháng, chàng thường nói về động Lạc Việt. Lần này trên đường đi Hoàng Phi Bằng suy nghĩ:– Nhân đây ta về thăm gia đình, còn hơn trăm lần nhờ hạc đưa tin, một lần thăm nhà gặp mặt Qia gia, Mẫu thân, hiền huynh, dẫu không nói lời nào thấy cũng an lòng hơn, đó là tình thiêng liêng gia đình.

Chàng vừa bước vào nhà gặp ngay Hoàng Lữ Thư, trong lòng ngạc nhiên chưa kịp thưa trình Gia gia, Mẫu thân. Hoàng Phi Bằng vội hỏi :

― Tỷ tỷ về nhà khi nào thế ?

Hoàng Lữ Thư đang miên man suy nghĩ khó nói nên lời, miệng nàng mếu máo nói như đôi dòng châu muốn rơi, thực ra có ý để Hoàng Phi Bằng cảm thông :

― Tỷ tỷ nhớ Gia gia, Mẫu thân và Đại huynh vừa về khi nãy, thăm viếng gia đình rồi đi trở lại động Nam Khê Sơn. Còn đệ khỏe không, mọi việc tốt cả chứ, làm gì mà đi lâu vậy, tỷ tỷ nhớ hiền đệ lắm ?

Hoàng Phi Bằng cười biết bà chị nói dối lòng, chàng đáp :

― Nghe tỷ tỷ nói những lời như mật ong đã quá.

Hoàng Lữ Thư chẩu môi phùng miệng đùa bỡn :

― Tỷ tỷ và đệ cũng cùng một bệnh rồi, đi xa nhà nhớ Gia gia, Mẫu thân, Đại huynh, nhớ cả cây cột nhà này nữa, thôi hiền đệ vấn an Gia gia, Mẫu thân rồi đi thôi.

Hoàng Phi Bằng cúi đầu thưa :

― Hài nhi kính bái vấn an sức khoẻ Gia gia, Mẫu thân, Đại huynh và Tỷ tỷ.

Hoàng Phi Chỉnh thấy con mình đã lớn khôn cũng lấy làm vui mừng nói :

― Hôm nay bất ngờ không hẹn mà cả nhà mình đoàn viên, đúng là phúc lắm, gia gia, mẫu thân của tam hài nhi vẫn bình an, nói về sức khoẻ với tuổi này đang trong kỳ sung mãn nhất. Hiện nay gia đình nội ngoại an lạc cả, chỉ có ngoại Tổ yếu nhẹ, gia gia ước gì cả gia đình mình về thăm viếng ngoại Tổ một chuyến.

Hiệp Phương Yến, nghe phu quân nói về thăm viếng cha mẹ của mình, bà xúc động vui mừng, nhưng không để lộ ra ngoài vì bà biết đạo nghĩa "Xuất giá tùng phu" dù rằng nhớ cha mẹ già cũng để trong lòng.

Hoàng Lữ Thư bẽm miệng bẽm mép, đề nghị ngay :

― Thưa Gia gia, Mẫu thân hôm nay là dịp tốt, cả nhà mình về thăm ngoại Tổ chứ .

Hoàng Phi Bằng cũng nói vào :

― Tỷ tỷ nói đung lắm, cả nhà mình đi liền hôm nay kẻo sau này không có dịp về thăm quê ngoại, vả lại hài nhi cùng tỷ tỷ sẽ còn nhiều việc phải làm, khi ấy ít về thăm Gia gia, Mẫu thân đó ạ, cũng có thể sau này đại huynh không thường ở bên Gia gia, Mẫu thân .

Hoàng Phi Chỉnh đồng ý, nhưng ông suy nghĩ từ đây đến Tây Trung thuộc Quế Lâm, quê của chuyết kinh (Lý Yến Hồng) phải mất đến mười ngày đường vừa đi vừa về, nói :

― Thôi được cả nhà lợi dụng trời mát mẻ tối nay lên đường, vậy cả nhà dùng cơm sớm, rồi đem theo đồ dùng cá nhân, như vậy đi và về mất hết nửa tháng.

Cả nhà họ Hoàng lấy quyết định di chuyển bằng phương tiện xe tứ mã, đêm đi ngày nghỉ, vài ngày đêm đến Tây Trung.

Huỳnh Tâm

Chương 18

Nước Non Bờ Cõi Một Phương

— Kiếm Khách Giang Nam có tất cả 20 chương.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét