Nước Non Bờ Cõi Một
Phương
Đến khi muội nhớ nhà mới xin phép
từ giả bá phụ, bá mẫu và đại huynh ân công. Lúc ấy bá phụ bảo đại huynh: "–
Gia gia nhờ hài nhi, tiễn chân nữ hiệp một đoạn đường". Lúc này thân thế của
muội vẫn chưa bị lộ, trong lòng muội bình thản vì ở trong nhà mấy tháng xem ra như
thân thuộc, thế mới biết họ Hoàng cứu người cũng như truyền thụ võ học dù cho
ai cũng không cần đền đáp.
Về đến Phiên Ngung thành, Khải đại
huynh mới nói: "– Tại hạ hộ giá công chúa Hương Trí Túc đến đây là tạm biệt".
Cũng may trước đó muội cùng đại huynh hứa hẹn cùng nhau thực hiện những ước
nguyện riêng tư cho đời mình.
Muội nhất định hậu nhân ân công
Khải đại huynh đến Hoàng cung gặp gia gia muội ban bổng lộc, nhưng đại huynh
không tiếp nhận, chỉ thuận ở lại thăm Hoàng cung vài ngày, sau ba ngày đại
huynh về lại Cửu Chân, muội tiễn đưa đại huynh ra ngoài thành rồi tạm biệt hẹn
ngày tái ngộ.
Hai tháng sau muội thấy con hạc
bay vào Ngung Sơn, đối cảnh sinh tình, vội vàng chuẩn bị hành trang, chờ hạc
bay ra là đi theo, lần này muội quyết định mạo hiểm đi tìm để biết tỷ Hoàng Lữ
Thư, Hoàng Phi Bằng sống ở đâu, thế là hạc đêm bay ngày nghỉ, muội cũng thế, hạc
trên trời muội dưới đất thi nhau bay chạy, nhờ võ công của muội khá hơn trước mới
phi thân theo không dám rời hạc, hạc ngủ trên cây muội ngủ dưới gốc cây, chỉ cần
hai ngày muội biết được qui luật sống của hạc.
Đến lúc hạc bay vào núi Thất Long
thì biến mất, muội không thấy hạc nữa, đành phải ở dưới chân núi vài ngày chờ
mãi không thấy hạc, cuối cùng quyết định ở tạm lữ điếm Gia Bảo tại trấn Phù
Ninh thuộc tỉnh Quế Lâm, ban ngày ăn ngủ ở đó, sẩm tối vào núi tìm hạc, cứ thế
hơn một tháng không thấy đâu cả, lòng thường suy nghĩ lễ bất khả phế, mình
không làm trái thì vô hại cứ an tâm ở đây, không ngờ bọn binh huyện Phù Ninh có
lòng tham theo dõi muội vào núi, để cướp nữ trang, tiền bạc đúng là có đường
thì kiến nó bu.
Thật ra muội ở tại lữ điếm đã sử
dụng hết tiền bạc và nữ trang, thậm chí những xiêm y cũng bán để đổi lấy xiêm y
của nữ Lạc dân để tạm che thân, chỉ còn một gia bảo ngọc thạch của nội tổ Vũ Đế
ban lộc vì vậy bất cứ giá nào cũng phải giữ gìn dù lặng lội trong vùng đao kiếm,
không thể để mất được, bọn binh huyện rất đông đánh với muội hai ngày một đêm, hóa
thành ngũ tạn lục phủ, mạch tượng hỗng loạn cũng như lính quân hổn hợp không có
tướng soái, lúc này muội mới biết dẫu cánh tay to cũng không bằng bắp đùi, may
mắn có tỷ xuất hiện, hai mươi ba địch thủ chỉ một chiêu, muội rất khâm phục ân
công, nhờ võ học truyệt chúng cứu sống đem muội về đây, nay mới biết Hoàng tỷ
là muội của đại huynh Hoàng Phi Khải và thời khắc này, muội vẫn chưa thực sự yết
kiến được sư tổ Hoàng Phi Bằng !
Công chúa Hương Trí Túc nói đến đây chạnh lòng
lệ rơi. Lữ Thư và Hoàng Phi Bằng nghe qua đôi lời chân thực, không sai người đời
có nói: Đèn không đốt không sáng, lời không nói không rõ. Người nghe cảm động và
thừa biết công chúa vì ngưỡng mộ mới ra nông nỗi này. Bây giờ Hoàng Phi
Bằng mới hiểu rõ tình người khác với tình yêu. Tình yêu là ý niệm của đôi lứa,
chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa gia thất, ngưới ta thường gọi là tình vợ chồng.
Còn tình người là ngưỡng mộ không phân biệt nam nữ, giai cấp xã hội và cả lòng
tin cũng không biên giới.
Hoàng Phi Bằng chắp hai tay trước
ngực thưa :
― Thưa công chúa cho tại hạ gọi
tiếng đại tỷ được không ? Chàng nói tiếp:– Cách đây hai tháng tiểu đệ đã biết tất
cả mọi liên hệ của công chúa với đại huynh. Giờ này tỷ Lữ Thư phải gọi công
chúa bằng đại tỷ mới phải đạo.
Lữ Thư rất ngạc nhiên hỏi :
― Tiểu đệ đã biết rồi à, nhưng tại
sao không nói trước để tỷ phải thất lễ với công chúa.
Hoàng Phi Bằng xin lỗi :
― Thưa tỷ, tiểu đệ được đại huynh
cho biết, cũng muốn báo tin này, nhưng vì nhiều việc quá cho nên chểnh mảng,
xin tỷ tha tội cho tiểu đệ.
Lữ Thư ôn tồn :
― Bổn cô nương hiểu rồi, hôm nay
việc này không được tiết lộ, có như vậy mới bảo toàn cho công chúa .
Hoàng Phi Bằng tỏ vẻ cung kính :
― Tiểu đệ vâng lời tỷ.
Thời gian trôi qua chín ngày,
Hương Trí Túc hoàn toàn bình phục, được tỷ huynh đệ trong động mời ra sảnh đường
dùng cơm trưa, nét mặt tươi tắn nhan sắc hồng hào, thân cốt, tướng quý phái xuất
hiện khác thường, mọi người đồng ngạc nhiên, tuy thấy Hương Trí Túc đang mặc
xiêm y vải thô mà vẫn thấy ẩn hiện kiều diễm.
Vô tình tạo ra hình ảnh đẹp của lứa
tuổi thanh thiếu niên, khởi đầu trong đời biết về ý niệm đẹp của tạo hóa ban bố
cho nữ giới một chân dung riêng biệt mà bấy lâu nay trong động chưa từng nghĩ đến.
Hiện nay trong động nữ giới có đến
năm người, như Trần Kiều Oanh, Hoàng Lữ Thư, Lệ Thanh, Hương Trí Túc, còn một
Quách Tuyết Băng thì không ai biết ở đâu ? riêng Đào Trần Mẫn Trâm xem người
em gái út trong gia đình, cũng là con của Hoàng Phi Bằng cho nên không ai để ý
đến, thấy Hương Trí Túc ngồi gần Lữ Thư, huynh đệ tất cả đồng "ồ" lời
khen.
Trịnh Trường kẻ lém lên tiếng trước
:
― Thưa tỷ Hương Trí Túc, ngày đầu
vào động đệ thấy thân cốt rất là héo hắt, trên mặt xạm nắng như da bánh cam
chưa vàng, lấm tấm những cát bụi trên người, y giáp vải thô, lúc ấy đệ đã hình
dung ra được một câu ca "Hỡi cô yếm trắng vải là, ấy là cát bá hay là cúc phai",
quả thực từ thân cốt tiều tụy, nay hiện ra thần nữ.
Trịnh Trường nói đến đó. Hương Trí
Túc đôi má ửng hồng, có ý sợ mọi người biết thân thế của mình, trong động ai
cũng biết Trịnh Trường là kẻ lém nhưng mà chân thực, có sao nói vậy, vốn con
nhà tửu lầu nhiều kinh nghiệm sống. Trịnh Trường vô tư, tự lòng chính thức khen
từng cá nhân giới nữ.
Trịnh Trường vui miệng nói luôn :
― Tại hạ ăn mặn nói bậy, mạo muội
luận về giới nữ có những mẫu chân dung đẹp thứ nhất lộng lẫy, yêu kiều, mảnh dẻ,
lưng cao, gương mặt lồng lộng, sáng như gương, nhờ ông thợ tạo hóa khéo tô điểm,
vẻ những nét rất đều đặn, mũi dọc dừa, miệng tươi như hoa, chúm chím thật hợp với
khuôn mặt, cặp mắt to, lòng đen long lánh trong nền yến trắng sáng. Ai cũng vỗ
tay khen.
Lữ Thư ửng hồng nét mặt, biết hiền
đệ Trịnh Trường lấy mình ra để làm cớ nói về người khác, lúc này Hoàng Phi Bằng
mới để ý tỷ tỷ của mình đúng như lời Trịnh Trường. Chàng nghĩ thầm:– Khi nào có
dịp mình sẽ ngắm thật kỹ cái đẹp và hiền hậu trên khuôn mặt của mẫu thân.
Trịnh Trường suy nghĩ một hồi, rồi
nói tiếp :
― Chân dung thứ hai, trong sắc đẹp
kiều diễm, trời lại phú cho tài trí thông minh, chọn âm nhạc và võ học làm thú
tiêu dao. Tạo hóa đã vẻ ra chân dung ấy rất mỹ lệ, với nụ cười liên miên trên
môi. Tính vững vàng, quả cảm, người ta nhận thấy trong cử chỉ ngôn ngữ ấy như
có nội lực thu hút tình cảm mọi người, chân dung nầy sớm đã có chủ hì hì ...
Ai cũng vỗ tay khen có tiếng nói :
― Đại huynh bình phẩm một lần nữa
không sai.
Ai cũng biết đó là nói về Lệ
Thanh của Xuân Giao, hai gia đình đã trao tín vật đính hôn. Trịnh Trường nói tiếp:–
Đôi uyên ương này chưa hề xa nhau một tấc gang nào. Chủ ý Trịnh Trường cảnh cáo
không ai được xâm phạm vào tình thiêng liệng của họ, điều này hiển nhiên ai
cũng hiểu rõ từ khi Xuân Giao và Lệ Thanh mới xuất hiện trong động.
Hương Túc vốn hay văn, hướng về
phía Xuân Giao và Lệ Thanh, liền xuất khẩu ngâm thi tặng đôi tình một bài từ :
Luận vạn cổ Xuân tình chàng
Đề mã cước Lệ Thanh nàng lãng du
Viết tên Giao đã mấy thu
Tình thức thấm cạn ba thu cận hầu.
Tất cả vỗ tay khen, từ đây trong
động xuất hiện thêm một danh nhân thi ca. Trịnh Trường đắc ý bài thi này, gật đầu
đôi lần, cười, rồi tiếp tục bình phẩm :
― Chân dung thứ ba. Gương mặt
trái xoan ửng hồng, nước da tuyết, mịn mỏng, mặt lồng lộng, sáng như trăng, đôi
mắt to nhung bồ câu, đen lanh lánh, thanh tú, mũi dọc dừa, miệng tươi như hoa,
có đôi lông mày cong vuốt, giọng nói nhỏ nhẹ, êm ái, nhưng trong lời nói thể hiện
tinh thần tự chủ, cả quyết. Mái tóc huyền mướt, miệng cùng lá phổi biểu tượng
cương khí, lòng trong sáng cân đối với gương mặt, những thiếu nữ này hiếm thấy ở
thế gian.
Tất cả đồng lắng nghe Trịnh Trường
bình phẩm, rồi không ai bảo ai đồng hướng ngó Hương Trí Túc, vốn da mặt mịn mỏng
ửng hồng, bây giờ biến thành trái mận chính.
Hương Trí Túc lòng càng e thẹn, lần
đầu tiên bị người ta bình phẩm về mình, nàng suy nghĩ:– Chưa bao giờ để ý về
mình. Tự dưng hôm nay nghe lời bình phẩm, trong lòng mới chăm chú, nghe không
sót một câu nào, nàng cảm thấy thân nhỏ lại như viên sỏi đá trong núi rừng hùng
vĩ. Nàng lại một lần nữa nghĩ thầm:– Không biết đại huynh Hoàng Phi Khải có
cùng suy nghĩ đẹp này không ?
Lữ Thư nhìn Hương Trí Túc, đôi lời
khen :
― Tỷ tỷ Hương Trí Túc đúng là nữ
kiệt văn võ song toàn, sắc hương quí tướng, hy vọng tương lai rực rỡ.
Hương Trí Túc miệng cười đáp :
― Muội đây chỉ nửa vành trăng
khuyết, còn tỷ mới là trăng tròn mười tám ở giữa trời, như vậy làm thế nào mà
sánh bằng tỷ được.
Lữ Thư duyên dáng cười, nàng nhìn
qua Trịnh Trường nghiêm nghị nói :
― Trịnh hiền đệ nên dừng lời bình
phẩm cái đẹp nữ giới ở đây, đã đến bữa cơm rồi chúng ta hãy nói chuyện khác
nhé .
Tất cả đồng ý, sau buổi cơm đến
tuần trà. Đào Trần Mẫn Trâm còn nhỏ tuổi cũng cảm khái tính can cường của Hương
Trí Túc, liền lên tiếng :
― Thưa gia gia, nói vài câu để cô
mẫu Hương Trí Túc an lòng chứ .
Cả sảnh đường yên lặng, Hoàng Phi
Bằng còn chần chờ thì Hương Trí Túc hỏi Đào Trần Mẫn Trâm :
― Gia gia của Trâm nhi là ai vậy ?
Đào Trần Mẫn Trâm đưa tay chỉ Hoàng
Phi Bằng. Hương Trí Túc không tin, hỏi lại Đào Trần Mẫn Trâm :
― Gia gia của Trâm nhi thực đấy à
?
Đào Trần Mẫn Trâm ngó Hoàng Phi Bằng
có ý xin phép, rồi nói :
― Thưa cô mẫu thực đấy mà, cháu
nói thực đấy không tin hỏi tất cả quí thúc bá, thúc thúc, cô mẫu thử xem.
Hoàng Phi Bằng lên tiếng :
― Thưa tỷ, điệt nữ nói đúng đấy,
tại hạ chính là gia gia của Anh Tuấn, Mẫn Trâm, chuyện này đôi ngày nữa tỷ sẽ
hiểu rõ. Thưa tỷ tìm tiểu đệ ngoài ngưỡng mộ còn có ý gì nữa không ?
Hương Trí Túc vui mừng không ngờ
đây chính là Hoàng Phi Bằng, hơi bối rối nói :
― Hiện giờ bổn hạ không biết cách
nào để xưng hô với người cho phải đạo vì người là gia gia của Trâm nhi.
Hoàng Phi Bằng có ý chuyển hoàn cảnh
này qua hướng khác nói :
― Cứ gọi tại hạ là ân công cũng
được.
Hương Trí Túc vốn trọng sư, đạo
nghĩa, liền nói :
― Thưa ân công có thể cho bổn hạ
xin đôi lời tạm gọi là yết kiến sư phụ được không ?
Hoàng Phi Bằng muốn giải cái khó
sưng hô do Hương Trí Túc đặt ra :
― Tỷ vào động này không ngoài bốn
chữ huynh tỷ đệ muội, tự xem là đã yết kiến rồi, tỷ Hương Trí Túc thứ lỗi cho
phép tại hạ thưa rõ xin đừng chê cười, lẽ ra thì chúng tại hạ phải giới thiệu
danh tánh trước để tỷ không vì những khuôn mặt này mà khổ sở tìm kiếm Hoàng Phi
Bằng, theo qui luật trong động, không tiếp đón bất cứ ai vì đề phòng mọi bất trắc,
quí tỷ huynh đệ muội tiếp đón tỷ là vô tình. Tuy vậy vẫn phải theo qui luật,
bây giờ xin mời quí huynh đệ giới thiệu danh tánh để Hương Trí Túc tỷ thi lễ từng
người một.
Nàng kính cẩn chào từng người, đồng
giới thiệu danh tánh, nàng đứng trước Hoàng Phi Bằng nhanh chân quì xuống một lạy
lễ ân công.
Hoàng Phi Bằng phản ứng chuyển bộ
pháp đứng sau lưng hỏi :
― Thưa tỷ tại sao phải hành động
như vậy ?
Hương Trí Túc tuy đã được Hoàng
Phi Bằng xác nhận là một thành viên trong động, nhưng vẫn thi lễ nói :
― Nghi lễ này bổn hạ bái ân công
cứu mạng, bổn hạ biết hành động như thế là tâm hóa, đây cũng là tính chơn thành
của bổn hạ, xin tạm tiếp nhận đúng lễ nghĩa.
Hoàng Phi Bằng phân trần :
― Tại hạ đã từ lâu không còn sống
trong ý nghĩ ân đền nghĩa trả, cho nên mọi sự động tĩnh ngoại cảnh không tưởng
đến, tuy có làm mà ngoài cuộc, xin tỷ cảm thông sau này không nên hành lễ như vậy
nữa.
Nhân hôm nay tại hạ xin trình bày
đôi lời về đời sống trong động, huynh tỷ đệ muội ẩn cư ở đây là để thực hiện
hoài bảo làm người tốt, nguyện vọng chống những kẻ làm khổ Lạc dân, khai trừ kẻ
gian tế ngoại ban.
Động Nam Khê Sơn là nơi nuôi hoài
bảo của thế hệ trẻ, thẳng thắn đứng vào thời cuộc, tinh thần đương nhiên phải sáng
suốt, trí tuệ vô tư, mục đích sống nhân chính, chấp nhận mọi thử thách sống chết
đều do trời đất an bài, ở đây là tình thân thương huynh tỷ đệ muội và một chữ
tâm, dưới chữ tâm có chữ đạo, dưới chữ đạo có chữ nhẫn, do đó lòng người không
đi ngược với lương tâm, tuy nhiên ý chí của mỗi người mỗi khác, tự cá nhân quyết
định lựa chọn hướng đi cho đời mình.
Thưa quí huynh tỷ đệ muội, ở
trong động này cũng đã khá lâu năm, văn võ đã song toàn, thân thế hiệp khách
trên giang hồ không kém ai. Những ai đã hết thích hợp ở đây thì tùy ý rời khỏi
không có cản trở nào cả.
Độ Thiếu đưa tay phát biểu :
― Độ Thiếu nhờ quí đại huynh hết
lòng chỉ giáo, nay được nên người xin nhớ ơn, tại hạ xin bái sư xuống núi.
Hoàng Phi Bằng cười :
― Độ Thiếu hiền đệ, lúc này chưa
xuống núi vội, luyện tập một tháng nữa rồi tất cả cùng xuống núi một lúc.
Hoàng Phi Bằng, Lý Bình Trung, Trịnh
Trường tuy đã biết thân thế của Độ Thiếu nhưng vẫn phải nuôi con cá nhỏ trong động.
Hoàng Phi Bằng ôn tồn nói tiếp :
― Hiền đệ Độ Thiếu tương lai còn
dài, động Nam Khê Sơn này chỉ là một không gian chật hẹp, không đủ thi thố khả
năng, nhưng phải biết tài năng từ khởi đầu mới có tương lai sau !
Độ Thiếu suy nghĩ âm thầm:– Ta
nào có lưu luyến động Nam Khê Sơn này đâu, ta tự hào đã có văn võ song toàn trước
khi vào đây, đắc chí cười thầm "há hà". Dù có ở trong động một tháng
hay một năm cũng không ai hay biết ta muốn gì, còn về võ học, hay qui luật sinh
hoạt trong đông ta không cần phải biết nữa, tất cả mỗ đã toại nguyện rồi "hà
hà".
Hoàng Phi Bằng chân thực hướng dẫn
huynh tỷ đệ muội, luyện võ học như thường lệ, chàng mời :
― Quí huynh tỷ đệ muội, chuẩn bị
luyện nhãn–nhĩ lực. Một mắt nhắm một mắt mở, sau đó hai mắt nhắm rồi hai mắt mở,
đây là phép biến hóa sinh nhiên con người, tiếp theo luyện tập nội công mới, để
gân cốt biến hóa. Ý của tại hạ muốn tìm những chí lớn phụng xã tắc, an cư, lạc
nghiệp, hy vọng quí hiền dâng hiến phần đời nhỏ bé này cho Nam Việt.
Hương Trí Túc cảm phục tâm huyết của
Hoàng Phi Bằng, nàng phát biểu :
― Bổn hạ, muốn quên đi quá khứ để
cùng quí hiền thực hiện tinh thần của động Nam Khê Sơn được không ?
Lý Bình Trung đề nghị :
― Hãy lấy ngày tháng hôm nay và
canh niên của cá nhân lập thệ kết nghĩa, tiện cho việc phân ngôi thứ, xưng hô.
Hương Trí Túc lần đầu tiên có ý
nghĩ về giang hồ và trước mắt là bối cảnh ở đây tuy nghèo mà chí không ngắn,
nàng nói :
― Lý huynh đề nghị đúng lắm hãy
làm như vậy mới gọi là huynh đệ chi gia chứ .
Tất cả đồng ý lập bàn hương án tại
trung tâm sảnh đường, từng người đồng hành lễ khấn theo nguyện vọng.
Đến phiên Hương Trí Túc cầm ba
nén hương đưa lên trán khấn :
― Tiểu nữ họ Triệu tên Hương Trí Túc,
đứng trước bàn hương án lòng thành dân lên liệt tổ, liệt tôn chứng giám một
lòng trung nghĩa, cùng quí hiếu hiền đem thân phụng Bách Việt đất tổ Lĩnh Nam,
an cư, lạc nghiệp vì xã tắc Nam Việt. Một lòng không thay đổi, nếu có lòng hai quí
hiền đem tiểu nữ phanh thây.
Trong động trở thành một tập thể
sinh hoạt qui củ, buổi sáng Lý Bình Trung lập lịch trình luyện tập võ học. Trưa–chiều
Lữ Thư và Trịnh Trường phụ trách trật tự và buổi tối dẫn giải võ học, thư pháp,
binh pháp v.v... Trần Kiều Oanh phụ trách hậu động.
Hoàng Phi Bằng tiến hành lập động
trên của Nam Khê Sơn, điều động nhân lực dọn dẹp, lập kho chứa lương thực, đại
sảnh, võ đường, thư phòng, nơi ăn ở cá nhân, đặc biệt bên tả trong động có nguồn
suối ôn tuyền ấm áp, được chia làm hai lối đi riêng cho nam và nữ.
Hoàng Phi Bằng để nhiều thời gian
vào võ học bí truyền, có ý chọn người thân cốt đủ khả năng đứng đầu động chủ,
chàng nói :
― Nhớ buổi sáng quí hiền luyện tập
nhãn–nhĩ lực đúng chín khắc, tập ngồi trước suối nghe và thấy nước chảy, tập nội
công một canh phi thân, từ đáy suối lên nguồn thác, ngồi tại chỗ cho thân thể vững,
xin mời theo tại hạ.
Tất cả ra suối luyện thập, Hoàng
Phi Bằng làm động tác trước. Phi thân mười ngón chân vừa ấn nhẹ xuống đất đã
lên đến nguồn thác, ngồi xuống nước, không qua một khắc thân thể đã nổi lên mặt
nước, rồi phi thân xuống suối. Hoàng Phi Bằng nói tiếp:– Quí hiền đồng luyện tập
những động tác mà tại hạ đã hành.
Tất cả đồng một suy nghĩ, phi
thân lên nguồn thác không có gì gọi là khó, nhưng không ngờ phi thân lên, tất cả
đều bị nước đẩy rơi xuống suối.
Hoàng Phi Bằng cười rồi dẫn giải
:
― Quí vị thấy nước ở dưới suối rất
mềm mại, muốn phân chia ra bao nhiêu cũng được, nhưng có một điều phải biết nước
ở nguồn thác là thể cứng rắn, một khối nước khổng lồ có thể san bằng mọi thứ
trên đời này thành bình địa, còn kim khí tuy thấy là thể cứng nhưng thực chất
là thể lỏng, quí hiền cần phải hiểu phép nhu cương của nước và kim khí khác
nhau tùy lúc mà hóa. Chàng khuyến khích thêm:– Quí hiền luyện tập như vậy mới
thấy tiến bộ, võ học không thiên vị ai, khổ luyện mới có kết quả.
Thực ra Hoàng Phi Bằng cũng biết
căn cơ gặp khởi thì mọi việc tốt đến mỗi ngày, còn căn cơ kém thì nhờ vào
phương pháp khổ luyện, cuối cùng rồi cũng được kết quả như nhau.
Hoàng Phi Bằng và Lữ Thư phải lên
đường đi Quế Lâm, cùng bảy đại hạc bay vào không trung biến dạng. Mọi sinh hoạt
ở động do Lý Bình Trung, Trần Kiều Oanh, Trịnh Trường làm chủ. Trước khi đi
Hoàng Phi Bằng bày trận đồ "Trung Nghi Thổ" để bảo mật động Nam Khê
Sơn.
Trần Kiều Oanh nhận được giản
biên do hạc đưa đến. Nàng xem chữ viết là biết từ thành Phiên Ngung đưa tin, nội
dung không viết nhiều chỉ một câu : "Cha con lão bán đậu chính danh
Lư Tân Hải". Nàng hiểu tại lữ quán có nhiều việc không ổn.
Trần Kiều Oanh chuyển tin đến
Hoàng Phi Bằng, tiếp theo viết một giản biên hồi âm: "Quách muội để cha
con ông lão sinh hoạt tự nhiên như không biết, bảy ngày sau Trịnh đệ về thăm muội"
Tỷ đệ Lữ Thư đến Tây Trung, cả
nhà vui mừng nhất là Lý Đại Châu, hôm sau Hoàng Phi Chỉnh đề nghị :
― Mời cả nhà đi thăm viếng Hoàng
nội tổ.
Lý Đại Châu hơi bối rối nói :
― Từng người này không biết di
chuyển bằng phương tiện nào ?
Hoàng Phi Chỉnh biết ý những người
cao niên thường nhớ cảnh cũ tình xưa, nơi vui buồn một thời. Nói đến thăm viếng
thì lòng háo hức, nhưng di chuyển là một cản trở dù có ý tốt, ông xoay qua hướng
Hoàng Phi Bằng hỏi :
― Theo ý của Bằng nhi thế nào ?
Hoàng Phi Bằng đã chuẩn bị trước
thưa :
― Thưa ngoại tổ, gia gia an tâm,
đại tỷ đã có dự trù trước, đem theo phẩm lễ thăm viếng Quế Lâm Vương. Mời ngoại
tổ cùng đi thăm một chuyến, điệt nam đã chuẩn bị đại hạc cho chuyến đi này.
Lý Đại Châu vui mừng để lòng âm
thầm chấp nhận, về Hoàng Phi Bằng cố ý tạo dịp cho ngoại tổ phỉ chí tang bồng.
Lý Đại Châu vui mừng không ngại lòng
hỏi :
― Nhiều lần ngoại cũng muốn đi
thăm đại huynh Hoàng Trung Nhất, nhưng không có dịp nào bằng hôm nay, nhân có
phương tiện của hiền điệt thì ngoại đây lòng háo hức lắm, ngoại cảm động vô cùng
.
Hoàng Phi Khải cúi đầu thi lễ ngoại
tổ :
― Hôm nay muội Lữ Thư và đệ Phi Bằng
thể hiện hiếu hiền trước ngoại tốt. Điệt nhi thay mặt gia gia, mẫu thân dâng hiến
lễ vật lên ngoại, ba cân đại Nhơn sâm đặc sản Trường Sa, hai cân cao Hổ cốt đặc
sản Tượng Quận, năm cân Cao ban long đặc sản Ngũ Lĩnh, mười cân trà búp Long Tỉnh
và Bích Hoa Xuân đặc sản Bắc Giang Nam.
Phần lễ vật nhị gia bá Lý Yến Bồ,
Lý Yến Hùng, đều nhau hai cân đại Nhơn sâm, hai cân cao Hổ cốt, hai cân Cao ban
long, sáu cân trà búp Long Tỉnh và Bích Hoa Xuân.
Cả nhà ngạc nhiên những vật này
chính phú gia tiền muôn bạc để chỉ mua được một lạng để dùng, ngay cả vương gia
cũng hiếm những thứ này.
Lý Đại Châu xúc động nói :
― Những thứ quý giá này ở đâu mà
có nhiều như vậy hả điệt nam.
Hoàng Phi Bằng cúi đầu thưa :
― Thưa ngoại, những vật này do Cần
Lĩnh Nam Giang Bắc cung cấp, trước đây nam nhi thường hiến dâng Tiên tổ, nay có
dịp dâng hiến lên ngoại cùng quí gia bá.
Lý Đại Châu ngạc nhiên hỏi tiếp :
― Điệt nam, có làm phiền cho Cần
Lĩnh Nam không ?
Hoàng Phi Bằng hiểu được lo âu của
ngoại thưa :
― Thưa ngoại an tâm, Cần Lĩnh Nam
Giang Bắc chuyên buôn bán những thứ này, đây chỉ là phần rất nhỏ không đáng vào
đâu, do nhị vị cô mẫu gửi về tặng điệt nam, xin ngoại tiếp nhận, đôi khi những
vật này còn gửi đến triều đình làm phẩm vật giao hảo với nhà Hán.
Lý Đại Châu hỏi tiếp :
― Ngoại hiểu suất xứ thì an tâm rồi,
đúng hơn là cảm động lòng hiếu thảo của Hoàng triệu phủ.
Hoàng Phi Chỉnh đứng lên thi lễ,
nhắc nhở giờ khởi hành :
― Thưa gia phụ ngoài trời đã tối,
mời gia phụ lên đường.
Trước canh năm gia đình Hoàng Phi
Chỉnh đã đến tổ đình họ Hoàng, cho đại hạc bay qua phủ Quế Lâm Vương, giờ này
còn quá sớm cho nên không ai dám vào, ở ngoài chờ đúng canh năm sẽ báo tin cho Vương
Hoàng Trung Nhất.
Hoàng Trung Nhất có lệ ngủ canh
tý, uống trà đọc sách canh tư, lệ họ Hoàng từ xưa nay vẫn thế. Thú vị nhất là tự
tay pha trà theo phương thức cách thủy cổ truyền của họ Hoàng.
Muốn uống được một chung trà phải
mất nhiều năm luyện tập, người uống biết hương vị trà khô, trà xanh, trà đen nước
cách thủy sôi ục ục, khi pha trà mười phân nước còn lại ba phân trà, nước trà
màu vàng, uống vào hương khí rất thơm, đặc biệt trà lưu lại huyệt cổ họng từ
sáng đến chiều, mỗi khi nói chuyện mùi thơm của trà tỏa ra ngoài, tạo cảm giác
sảng khoái cho người đối diện, họ Hoàng lưu danh kiếm pháp, Thiết kim châm,
ngoài ra còn có bí cấp thuật lý trà, như hai câu thơ trà họ Hoàng :
"Đại trà gốc Thái Nguyên
Sơn,
Cốt pha mai nở luyện đơn làm người".
Hoàng Trung Nhất biết thưởng thức
trà khi tuổi còn thanh xuân, cũng chính trà cho ông sức khỏe dư trăm bất bệnh.
Họ Hoàng chỉ uống trà Thái Nguyên Sơn, ngoài ra không có trà nơi nào ngon bằng,
trong câu thơ thứ hai "Cốt pha mai nở luyện đơn làm người" trong họ
Hoàng xem như mò kim dưới đáy biển, chỉ biết hoa mai sống tinh khiết nhờ xác
trà nhưng không biết phương pháp luyện đơn. Hiện tại trước sân gia đường họ
Hoàng có đến mười hai gốc hoa mai trên năm trăm tuổi, gốc hoa mai có những đốm
mốc trắng nguyệt, đặc biệt phần dưới gốc mọc một thứ rong rêu màu xám có hương
trà tỏa ra, Hoa mai vàng nở vào mùa xuân, hoa rất đẹp.
Chung trà của Hoàng Trung Nhất đã
cạn, vừa đúng canh năm, Hoàng Trung Nhất ra sảnh đường thắp đèn, có tiếng gọi :
― Tổ phụ.
Hoàng Trung Nhất xoay lưng lại thấy
cả nhà Hoàng Phi Chỉnh đứng trong sân phủ, ông hối hả ra sân đón tiếp, có cả
tri kỷ Lý Đại Châu, ông xúc động nhìn qua chân dung của Lý Đại Châu cúi đầu chào
:
― Tại hạ không ngờ hơn ba năm xa
cách, nay đại huynh giá lâm, cung thỉnh đại huynh cùng cả nhà Chỉnh nhi vào trong
kẻo lạnh.
Buổi đoàn tụ họ Hoàng cùng Lý Đại
Châu tạo ra một không khí sớm mai an lành, Hoàng Trung Nhất đích thân pha trà :
― Mời Lý huynh một chung trà, buổi
sáng uống trà là một thú vị cao nhất của trà nhân.
Lý Đại Châu hai tay bưng chung
trà uống khen:
― Cung kính đa tạ đại huynh, đây
là chung trà tri kỷ trong lòng tại hạ không hề phai, quả nhiên trà rất hợp khẩu
vị, đúng là trà tuyệt hảo, huynh có thể cho biết nghệ thuật uống trà
không ?
Hoàng Trung Nhất thực lòng trình bày:
― Thưa huynh, phương pháp pha
trà, nấu nước pha trà phải cho sôi đến ba lần, lần thứ nhất nước sôi có bọt lớn
như mắt cá, tiếng nước sôi khe khẽ, cho vào một lượng muối thích hợp, lần thứ
hai nước sôi bồng khắp chung quanh, múc ra một gáo nước, rồi dùng một kẹp trúc
xoay thành xoáy tròn, sau đó tùy khẩu vị của mỗi người mà cho vào một lượng lá
trà thích hợp, lần sôi thứ ba nước trà cuộn lên tần lớp trên mặt vớt ra bỏ đi,
múc ra một gáo nước chờ nước sôi mạnh nhất thì đổ vô một gáo nước lần đầu vào,
nước trà giảm nhiệt độ dần chỉ cho đủ sôi, đến đó đổ gáo nước thứ hai vào, nước
trà vừa có màu vàng, vừa thơm thuần khiết thì mới gọi là trà ngon.
Lý Đại Châu khen một lần nữa :
― Quả là trà thơm và ngon tuyệt
nhờ đạo lý trà mà phát sinh.
Hoàng Trung Nhất nói tiếp :
― Trà ngon khó tìm kiếm, quan trọng
là khống chế được lửa, đó cũng là bí quyết của trà nhân. Đa tạ đại huynh để
lòng khen tiểu đệ, nay huynh đã quá canh hạc mà thân vẫn lặng lội đường xa,
đúng là lòng người không ngại núi e sông.
Cá tính Hoàng Trung Nhất cởi mở
bao giờ cũng tác động lòng người hăm hở, nhất là khẩu âm có sức mạnh tinh thần,
quyến rũ người đối diện, dù võ học kỳ thần cũng bị ông thuyết phục.
Lý Đại Châu hỏi thăm về dư đảng
Nguyễn Chí Tùng :
― Thưa đại huynh, tại hạ chuyển về
đây nội vụ dư đảng Nguyễn Chí Tùng, đến hôm nay đã xử y nào rồi huynh nhỉ ?
Hoàng Trung Nhất ung dung đáp :
― Cũng may nhờ đại huynh dẹp yên được đảng Nguyễn Chí Tùng, y còn người em
út tên là Nguyễn Chí Hà, cũng là một đầu đảng hoạt động tại biên giới Quế Châu,
nhóm dư đảng này do người Hán thọc tay vào tạo ra thế lực khá mạnh, vừa rồi họ
tuyên bố trả thù cho Nguyễn Chí Tùng.
Hiện thời Cần Lĩnh Nam Giang Trung đang cầm chân Nguyễn Chí Hà, hôm qua tại
hạ nhận được tin Nguyễn Chí Hà cố thủ sào huyệt Ly Bộ, nơi này có ba con lộ,
như hạ lộ Ly Bộ ở phía đất Hán, bích núi chồng chất từng lớp cao hiểm trở, hai
lộ còn lại trên đất Quế Lâm, họ tuyên bố bằng mọi giá cố thủ, nay muốn phong tỏa
được Ly Bộ phải chiếm được hạ lộ Ly Bộ, cuộc chiến đang bàn thảo đến nay vẫn
chưa ngã ngũ ra sao cả. Ông nói tiếp:– Nhân dịp hiệp ngộ ân tình thông gia tất
cả đồng vui đừng lo âu ngoài đời.
Hoàng Phi Chỉnh tường thuật đời sống huynh đệ họ Hoàng, cũng như cá nhân ở Giang
Nam.
Hoàng Trung Nhất nghe qua an lòng nói :
― Gia đạo họ Hoàng nhà mỗ sống ở đâu cũng bình an, nhưng rất tiếc tiểu đệ
Hoàng Hạc qui tiên sơm quá, mới đây mà đã hơn năm năm rồi ! Xem ra mọi việc cõi
đời này cũng theo phong thủy luôn luôn chuyển.
Hoàng Phi Bằng nghe tổ bá nói đến Cần Lĩnh Nam Giang Trung trong lòng muốn
đến Ly Bộ xem qua tình hình, rồi nói :
― Thưa tổ bá, điệt Phi Bằng muốn đi Ly Bộ một chuyến, xem sinh hoạt Cần
Lĩnh Nam Giang Trung nay thế nào rồi ?
Vừa lúc Vũ Thư Minh bước vào sảnh
đường, mục đích đến báo tin cho Hoàng Trung Nhất biết về kế sách chuẩn bị tấn
công Ly Bộ, diệt trừ dư đảng Nguyễn Chí Hà, không ngờ gặp cả nhà Hoàng Phi Chỉnh,
họ Vũ vui mừng nhất là gặp lại Hoàng Phi Bằng.
Họ Vũ thấy một ông lão lạ mặt ngồi
đối diện với Quế Lâm Vương, nước da trắng bạc có những đốm đồi mồi sạm, mắt hơi
sâu, đầu tóc bạc phau, tướng mảnh khảnh, thân thể cao ráo, thấy thoáng qua cốt
chất bình thường không thể ngờ là một nhân kiệt trong giang hồ.
Vũ Thư Minh tuy trong lòng háo hức
vui mừng, nhưng vẫn còn dè dặt trước mặt ông lảo lạ mặt, không thể trình bày về
tình hình Ly Bộ.
Hoàng Trung Nhất hiểu ý giới thiệu
:
― Vũ nhi, đây là tri kỷ thông gia
của lão, tiên sinh họ Lý tên Đại Châu. Trong cuộc đời của lão không cần phải
quá nhiều bạn, chỉ cần có một hay hai tri kỷ như Lý tiên sinh đây là mãn nguyện
lắm rồi .
Vũ Thư Minh khoanh tay thi lễ. Hoàng
Trung Nhất nói tiếp:– Người đời còn tặng tiên sinh biệt hiệu Nhân Gian Khách,
người là gia gia của Hiệp Phương Lan đấy.
Vũ Thư Minh vui quỳ gối thi lễ :
― Tiểu bối xin kính bái tiên
sinh, thứ lỗi tội không biết để thi lễ trước.
Lý Đại Châu có nghe danh Vũ Thư
Minh nhưng chưa có dịp gặp mặt. Hoàng Trung Nhất hỏi :
― Vũ nhi nghĩ thế nào gọi là có tội
với tiên sinh ?
Vũ Thư Minh cung kính trả lời :
― Thưa tổ bá, tiên sinh Nhân Gian
Khách chính là ân công cứu sống hiền đệ Hoàng Anh Tuấn.
Hoàng Trung Nhất ngạc nhiêu hỏi :
― Hả, sao lão không biết việc này
?
― Thưa tổ bá, Anh Tuấn hiền đệ đi
cứu kẻ khó, không ngờ đụng phải một người bịt mặt dùng độc dược hảm hại. Cũng
may hôm ấy tiên sinh Nhân Gian Khách vừa đi đến, thấy hiền đệ trúng độc nằm quằn
quại dưới đất, tiên sinh ra tay giải độc, nhờ thế mới tau qua nạn khỏi, việc
này đã trải qua hai năm trước.
Hoàng Trung Nhất thở dài :
― Quả là họ Hoàng có phúc, Anh Tuấn
cứu người không ngờ kẻ gian hảm hại, đúng là nguy cơ không đo lường giang hồ bất
trắc, may gặp Lý đại huynh ban bố mới còn sinh mạng, tiểu đệ thay mặt điệt nhi
đa tạ Lý đại huynh.
Lý Đại Châu hiểu nguyên ủy nói :
― Thì ra thiếu hiệp Anh Tuấn là lệnh
điệt của mỗ, có phước lắm, đại huynh có biết kẻ hảm hại lệnh điệt là ai không ?
Hoàng Trung Nhất ngạc nhiên hỏi :
― Tại hạ làm sao biết danh tánh
người ấy, nhưng hiện nay họ là ai và ở đâu ?
Lý Đại Châu trả lời :
― Người ấy chính là Hoàng Phủ Ngọc
Tường làm gian tế cho Hán, hiện nay y ở đất Tứ Xuyên, không biết lý do nào một
số người Phủ Ngọc ở Trường Sa đều chết bởi tay y !
Hoàng Trung Nhất biết người cùng
họ hành động bất chính, lòng không vui, ít nhiều ray rứt, thở dài phân trần :
― Đúng rồi, chi Phủ Ngọc trong
gia phả có ghi. Ngày xưa lập nghiệp ba đời tại U Việt, rồi lập nghiệp ở Trường
Sa, tính đến nay đã được bảy đời, nói chung chi này cùng một Tiên tổ, nhưng
chưa bao giờ về đây lễ Thanh Minh, chi Phủ Ngọc có một đời làm gian tế cho Sở
trên đất U Việt, ngày nay họ ở Trường Sa làm gian tế cho Hán, thảo nào người đời
nói không sai :
"Một người xấu cả bậu mang
nhơ,
Một người làm tốt cả bậu được nhờ".
Hiện nay họ Hoàng đang đứng trước
hắc bạch bất lưỡng lập.
Hoàng Phi Bằng thấy tổ bá không
được vui, liền thi lễ :
― Thưa tổ bá, những ai trong họ
có tội cũ tội mới làm gian tế cho Sở, Hán nhất định không dung thứ, phải
"Nhất trị gia, nhì trị quốc", trong họ không trị được thì còn mặt mũi
nào thấy liệt tổ liệt tôn, đối với thiên hạ thì mình hổ thẹn, việc này Phi Bằng
nhi cũng có trách nhiệm, xin tổ bá an tâm.
Vũ Thư Minh xin phép trình bày nội
vụ Ly Bộ để Hoàng Trung Nhất am tường :
― Thưa tổ bá, ba ngày nữa Cần
Lĩnh Nam Giang Trung tiến đánh sào huyệt Ly Bộ, cắt hạ lộ Ly Bộ chia ra làm ba
tuyến, một tuyến công, hai tuyến thủ, trung-thượng lộ Ly Bộ xem như bỏ ngỏ mở cửa
lùa hổ xuống đồng bằng. Hai tuyến thủ ở mặt hạ lộ sẽ là chủ lực phá sào huyệt
Ly Bộ.
Hoàng Trung Nhất trong lòng đang
nảo ruột, bỗng vui tay đập xuống đùi cười :
― Đúng thế, lập mặt trận người
hay dụng binh pháp như kế thần, không hổ thẹn Vũ tướng quân xuất kỳ bất ý, còn
Anh Tuấn trấn ngự ở tuyến nào ?
Vũ Thư Minh đáp :
― Thưa tổ bá, Anh Tuấn, Thanh Thủy,
Nguyễn Chung Kiệt chỉ huy hai tuyến thủ. Tiểu điệt và Lê Chí Nam chỉ huy tuyến
tiền đạo tấn công, nói chung cả ba tuyến cùng quan trọng như nhau.
Hoàng Phi Bằng nghe qua cảm thấy
mặt trận còn vài điểm yếu, cần bổ túc để Vũ Thư Minh nắm chủ động hơn, liền
phát biểu :
― Thưa thúc thúc, điểm yếu của trận
này cần bổ túc, chia thành bốn tuyến, tiền đạo tấn công, tuyến Nam, tuyến Bắc đồng
tấn công, một tuyến thủ và hậu cần, Phi Bằng nhi xin nhập cuộc làm tiền đạo.
Cả nhà nội ngoại nghe Hoàng Phi Bằng
xin tham gia. Hoàng Trung Nhất đắc ý cười nói :
― Đề nghị tất cả nội ngoại lập
riêng một lộ tuyến phòng thủ.
Hoàng Phi Bằng biết tổ bá nói pha
trò cho vui :
― Thưa tổ bá, ngoại tổ, gia gia,
mẫu thân cùng đại huynh, mấy khi được đoàn viên, hàn uyên như thế này mà lại đi
diệt địch thì không tiện, chi bằng để điệt nhi thay mặt cả nhà !
Lữ Thư nghe nói đi diệt địch là
lòng như mở cờ hội:
― Tại sao tỷ tỷ Thanh Thủy tham
gia được mà không có Lữ Thư chứ ? Nữ nhi xin làm tướng một lộ tuyến tấn
công. Tướng cường binh mạnh ắt thắng mà.
Hoàng Phi Khải ít nói, vốn tính
điềm nhiên tọa thị, chỉ ngồi bấm đốt ngón tay là đã biết Cần Lĩnh Nam Giang
Trung sẽ đắc thắng, bây giờ có Hoàng Phi Bằng, Lữ Thư tham gia khác nào như hổ
chấp cánh, chàng nói :
― Theo binh pháp của thúc thúc đã
định, nếu đánh vào sào huyệt của dư đảng lúc canh một, xem như quân bài chòi hốt
cái, cá nhỏ, cá to đồng loạt chuôi vào đáy hạ lộ. Họ cũng biết hạ lộ Ly Bộ là
đường sống, nhưng bị thúc thúc chia ra thành ba tuyến hai thủ, một công, lực lượng
Cần Lĩnh Nam Giang Trung sợ người Hán tấn công sau lưng cho nên mới có hai thủ.
Trái lại Phi Bằng hiền đệ lập trận đồ "Thẩm binh bố pháp" đương nhiên
thượng phong trên tay, ít hao binh không hao tướng thành quả phi thường.
Vũ Thư Minh đắc ý gật đầu, không
ngờ phát biểu của Phi Khải đã soi sáng chiến trường phân định được kẻ thắng người
thua, ông liền khen :
― Phi Khải nhi luận rất đúng,
không sai đó là thuật dụng binh.
Hoàng Phi Khải nghe thúc thúc
khen, chàng khẻ thưa :
― Thưa thúc thúc, tuy Phi Khải luận
thuật dụng binh pháp như vậy, nhưng không bằng ứng biến binh pháp thực tế, ngồi
nhà luận là mưu trí, thực tế là do dũng hành động, nói chung mưu trí dũng tùy
theo thuyền nước lên xuống, hy vọng thúc thúc mã đáo thành công.
Cả nhà nội ngoại đồng khen thầm
Hoàng Phi Khải tuổi trẻ đã có kiến thức rộng về chiến trường.
Hoàng Trung Nhất trong lòng hãnh
diện cũng nghĩ thầm:– Con cháu họ Hoàng nhà mỗ không hổ thẹn với tổ tiên, miệng
cười rồi nói :
― Hôm nay lão sảng khoái lắm,
tinh thần cũng vui hơn, nhờ sự chiếu cố thăm viếng của đại huynh Nhân Gian
Khách, ngoài ra Phi Chỉnh nhi cùng Hiệp Phương Lan sinh nam nữ điệt nhi văn võ
thi thố với đời không thẹn, mai này lão có nhắm mắt cũng an lạc. Ông nói tiếp:–
Ngày lão đệ Hoàng Hạc còn sinh tiền thường nhắc nhở chiếu cố Vũ nhi như con ruột,
lão hài lòng có được một người con vì sơn hà xã tắc, không vì một Trường Sa
Vương, thử hỏi ở đời này có mấy ai. Nay lão thay mặt triều đình trao cho Vũ nhi
năm trăm binh tướng Quế Lâm để trợ chiến.
Theo gia pháp họ Hoàng, khi người
trưởng tộc trình bày nội trị gia đạo thì tất cả con cháu phải đứng thẳng, trang
nghiêm, Vũ Thư Minh cũng không ngoại lệ này.
Hoàng Trung Nhất nói tiếp:– Lão
gia ân miễn lễ quí hiền nhi, hiền điệt bình thân, đã đến lúc chuẩn bị lên đường.
Tất cả đồng quỳ xuống bái tạ
Hoàng Trung Nhất, chúc tổ bá cùng Lý Đại Châu an hảo. Vũ Thư Minh, Hoàng Phi Bằng,
Lữ Thư chào cả nhà tạm biệt, hẹn bảy ngày sau tái ngộ.
Hoàng Phi Chỉnh dâng tặng Hoàng
Trung Nhất số lượng lễ phẩm tương đương gia phụ Lý Đại Châu.
Vũ Thư Minh tiếp nhận năm trăm
binh tướng, nhất là gặp lại Hoàng Phi Bằng trong hoàn cảnh không hẹn mà đến.
Trên đường đi Vũ Thư Minh báo tin vui cho Lữ Thư và Hoàng Phi Bằng biết :
― Lữ Thư à, nhờ trời ân ban trong
một tháng thúc thúc có cùng lúc ba hoàng nam kháo khỉnh lắm, sau khi sinh hạ
tam thúc mẫu vẫn được mẹ tròn con vuông.
Hoàng Phi Bằng vui mừng khôn xiết
nói :
― Thúc thúc cùng thúc mẫu nhớ làm
lễ đại hỷ mời chúng hài nhi đó nhé, hiện nay đã có dự kiến dưỡng sinh thế nào chưa
?
Vũ Thư Minh trả lới :
― Hiện giờ còn sớm lắm, tuy vậy dự
kiến của thúc mẫu Chu Thượng Thủy thì cả ba trẻ giao cho một người nuôi, thay
phiên bốn tháng, ý kiến của thúc mẫu Chu Hoa Thủy khi trẻ thôi nôi thì mới thực
hiện theo ý của thúc mẫu Thủy, ý kiến của thúc mẫu Chu Trang Thủy thì con ai nấy
nuôi vì mẹ không thể rời xa con, đây là một nổi khổ của kẻ nhiều vợ.
Hoàng Phi Bằng cũng phải phát cười,
nhưng trong lòng chứa chân dung nhị vị thúc mẫu đã qua đời sớm, cho nên nụ cười
không thoải mái.
Vũ Thư Minh là người lịch duyệt,
đọc được suy nghĩ của Hoàng Phi Bằng hỏi :
― Phi Bằng nhi, hình như có tâm sự
riêng phải không ?
Hoàng Phi Bằng nhớ tới thời gian
chiến tranh tại biên giới Bắc–Đông đã trôi qua nhanh, chàng nói :
― Quả thực thúc thúc lo âu nhiều
về gia đạo, nếu như còn nhị vị thúc mẫu Chu Thanh Thủy, Chu Ngọc Thủy thì có lẽ
khổ hơn nhiều ! Đôi khi người ta trị quốc được, nhưng mà trị nhà lại khó ! Hài
nhi chúc mừng thúc thúc "Nhất sự thuận, vạn sự lành".
Vũ Thư Minh nét mặt chăm chiêu về
một hướng xa thẩm, hồi tưởng ngày ấy rất đẹp nói :
― Quả là ông trời cho quá nhiều,
nay khổ tâm lao lực cũng nhiều vì "Nhất duyên, nhì phận, tam phong thổ"
người ngoài như Phi Bằng điệt thì sáng, theo ý của Lữ Thư phải làm thế nào cho
phải đạo ?
Lữ Thư vốn chưa va chạm gia đạo,
còn tình đời suy nghĩ đơn sơ và mộc mạc nói :
― Không có gì khó cả, bây giờ lấy
ý của thúc mẫu Chu Thượng Thủy thực hiện. Lữ Thư giải thích tiếp:– Lý do cần sự
ổn định tinh thần và hạnh phúc gia đình, phải có một động lực giá trị làm gạch
nối.
Vũ Thư Minh nhớ lại họ Chu có nhiều
tình thâm với Phi Bằng, ông trả lời :
― Lữ Thư nhìn thấy gia đạo của
thúc thúc không sai. Chỉ cần Phi Bằng nhi lên tiếng là quí thúc mẫu xem như một
thành viên trong gia đình, từ đó thúc thúc giải quyết được mọi trọng nhiệm, mà
từ bao lâu chưa dám nghĩ đến, cảm ơn Lữ Thư nhiều.
Lữ Thư nói tiếp :
― Theo suy nghĩ của nữ nhi, quí
thúc mẫu có lý riêng, tình mẫu tử không thể lìa nhau, nhưng ở đây tuy ba mà một,
giải quyết theo ý của thúc mẫu Chu Thượng Thủy là thượng sách.
Vũ Thư Minh tươi cười :
― Thế là cuộc chiến gia đạo đã
an, còn trận chiến Ly Bộ cứ thế mà hành động. Tối mai sẽ tấn công ba mặt cùng
lúc, thúc thúc quyết tảo trừ bọn giặc nối giáo cho Hán.
Vũ Thư Minh suy nghĩ thầm:– Hiện
nay mỗ chưa hiểu khả năng võ học của Lữ Thư, cho nên phân vân, giao cánh tả cho
Lữ Thư, thực là nhiệm vụ khá nguy hiểm vì vừa thủ vừa tấn công, còn mỗ tấn công
không thủ, không biết Lữ Thư đã hiểu được trọng trách này chưa ?
Lữ Thư tự lòng nói :
― Thưa thúc thúc hãy an tâm, trận
chiến này nắm chắc phần thắng, theo đại huynh Khải cho biết, cánh tả từ thủ qua
tấn công, cũng từ tấn công không cần thủ, trận đồ bố trí tướng binh chặt chẻ.
Vũ Thư Minh khen thầm:– Đúng là nữ
nhi họ Hoàng hào kiệt không khác hổ tướng, tuy vậy cũng không an tâm cho lắm vì
lần đầu tiên Lữ Thư luận kỳ binh pháp, chứ chưa thấy ngoài mặt trận, mỗ nên để
một lực lượng nhỏ đề phòng thì hơn .
Giờ dậu, đoàn quân Quế Lâm cùng với
Cần Lĩnh Nam Giang Trung đã chia ra bốn phòng tuyến tại hạ lộ trên đất Hán. Giờ
Tý trong sào huyệt Ly Bộ vẫn yên tĩnh, trong khu rừng bích đá cheo leo nối dài
từ bắc Quế Lâm (Nam Việt) đến nam Quế Châu (Hán) những tảng đá thiên nhiên cao hơn
nóc nhà nhô sừng sững, tựa như vòng thành bao bọc kiên cố, lối vào sào huyệt đá
chông gai dài tắp, cổ thụ chằng chịt không khác nào thành lũy thứ hai, ai ngờ
nơi đây là căn cứ nuôi quân rất lý tưởng.
Cảnh vật trầm lặng âm u khiến Vũ
Thư Minh chú ý, linh cảm bày binh bố trận chưa được ổn lắm vì sào huyệt Ly Bộ
đã cố thủ, mọi chuẩn bị bao vây như vô dụng, địch đã đề phòng những điểm trọng
yếu, cũng là một kế sách dụng binh, trong lòng cảm thấy rờn rợn. Đúng lúc có
chín giám binh vội vã đi tới, dẫn mười người theo sau, nhìn kỷ mới rõ đây là mười
Cần Lĩnh Nam Giang Trung làm nội ứng trong sào huyệt Ly Bộ.
Vũ Thư Minh mừng rỡ hỏi :
― Quí huynh đệ thế nào khỏe
không, hơn một năm nay mới hội ngộ, mỗ lo sợ thân phận của quí huynh đệ bị địch
phát hiện, một năm liền trong lòng mỗ không an tâm, nay trùng phùng về một nhà
Cần Lĩnh Nam Giang Trung, đúng như câu người đời đã nói: "Nuôi quân một
năm chỉ dụng một ngày", hôm nay thành bại là nhờ lòng can trường của quí
huynh đệ, mỗ thay mặt toàn quân đa tạ quí đại huynh.
Trưởng giám binh Hà Thuận thưa :
― Thưa, Vũ đại huynh nay thập
giám binh đã am tường địa thế, qui luật sinh hoạt của sào huyệt Ly Bộ, nào là
nơi ăn ở, chòi canh vọng gác, các ban bộ trại, sảnh đường của tên Nguyễn Chí
Hà, ngoài ra còn có một khu trại người Hán.
Vũ Thư Minh vội vã hỏi :
― Trước hết quân của Cần Lĩnh Nam
Giang Trung phải tiến vào nơi nào trước ?
Hà Thuận thay mặt thập giám binh
đáp :
― Thưa, Vũ huynh muốn thành công
thì phải chia quân thành chín mũi tên bắn thẳng vào ban bộ trại, còn lại một
mũi tên tiến vào bắt sống trại chủ Nguyễn Chí Hà, về phòng bị bắt tất cả không
để một người Hán nào chạy thoát ra ngoài.
Vũ Thư Minh hỏi tiếp :
― Thế thì phải cần bao nhiêu quân
binh ?
Hà Thuận miệng liền tay chỉ về hướng
Đông :
― Thưa chỉ cần một trăm cao thủ
là đủ.
Vũ Thư Minh vui mừng nói :
― Tốt lắm mỗ có hơn hai trăm binh
tướng mã cường, chia thành mười hướng do thập giám binh hướng dẫn đột nhập sào
huyệt của chúng, lên đường từ bây giờ được không ?
Hà Thuận khẩn định :
― Thưa, Vũ huynh đúng vậy không
sai, chính giờ hoàng đạo mặt trăng lên cao là lúc thiên hạ ngủ ngon nhất, chúng
ta mượn thời gian này hành động là thuận thuyền theo gió.
Vũ Thư Minh thảo mật thư gửi
phòng tuyến hai và thứ ba, năm khắc sau hai trăm cao thủ Cần Lĩnh Nam Giang
Trung phi thân tiến vào sào huyệt.
Đêm nay sào huyệt Ly Bộ nổi gió
trang hùng, một bên chủ ý bao vây doanh trại, một bên vô ý ngủ say như mọi ngày
bình an !
Ngoài trời sương mù gieo xuống những
hạt nước lắt rắt trên cành lá, cảnh vật người và không gian đồng ngủ say, tiếng
vó ngựa rộn rịp qua canh hai chỉ để lại dấu chân trong đêm tối vắng lặng.
Sào huyệt Ly Bộ núi rừng hiểm trở,
cũng là nơi an toàn nhất của kẻ cướp, hiện thời lại có người Hán hổ trợ, Ly Bộ
trở thành thế giới riêng của Nguyễn Chí Hà.
Xưa nay Quế Lâm Vương chưa đem
quân đánh vào sơn trại Ly Bộ, bởi thế tiếng ngái ngủ trong đêm thay cho tiếng
ve sầu chuẩn bị lột xác.
Quân tướng Cần Lĩnh Nam Giang
Trung và quân tướng của Quế Lâm Vương hợp lực bày ra thành lũy trận đồ binh pháp,
binh tinh thao lược sẳn sàng giáp chiến, cố giữ sự yên lặng trong rừng núi để
chờ hai khắc cuối giờ Tý lệnh ban truyền, đầu canh một là phong tỏa toàn bộ sơn
trại.
Hai trăm bóng đen phi thân thần tốc,
đi trước có thập giám binh nội ứng cùng hai mươi giám binh truyền khẩu lệnh,
vào đến trại chủ Nguyễn Chí Hà, cũng như trại người Hán, Thập binh làm ám hiệu
chỉ đường tường tận từ ngõ vào lối ra.
Lệnh tấn công, một tiếng pháo nổ
ngoài xa, đúng như thần đã định liệu, lệnh tiển báo tin đã bắt trọn toàn bộ chủ
soái dư đảng Nguyễn Chí Hà, cả người Hán đồng chung số phận bị trói tay, thế mà
trong đêm vẫn như tờ không nghe động một tiếng kiếm binh đao.
Từ lúc mọi việc khởi đầu và kết
thúc giải quyết mau lẹ. Vũ Thư Minh chuyển hơn hai trăm dư đảng và người Hán ra
khỏi trại. Đến canh ba tiếng pháo thứ hai nổ lớn, lúc này thực sự binh mã của Cần
Lĩnh Nam Giang Trung đã bao vây Ly Bộ.
Vũ Thư Minh gọi lục lăng dư đảng Ly
Bộ đầu hàng :
― Thưa quí huynh đệ, mỗ thay mặt
Quế Lâm Vương đem binh đến đây mục đích bắt Nguyễn Chí Hà và đồng đảng người
Hán, việc bắt sống đã thành công, riêng quí huynh đệ chỉ vì nhẹ dạ bị cám dỗ
nên chưa phân được hắc bạch, đó là lẽ thường tình, tại hạ không trách mà còn
đem lòng cảm thông, xin quí huynh đệ bỏ kiếm đao về đời sống lương dân, còn muốn
làm người hữu dụng thì theo mỗ, nói chung tất cả quí huynh đệ không một ai bị
tra cứu.
Lục lăng dư đảng của các trưởng đảng
bộ vẫn chưa tin, nghĩ rằng trại chủ vẫn còn vô sự, họ không tin đảng trưởng và
trại Hán đã bị bắt, các tổ, đội trưởng cho người âm thầm quan sát, đây là dịp
tùy cơ ứng biến.
Vũ Thư Minh hiểu ý của bọn lục
lăng chưa tin lời nói là sự thật, liền ra hiệu lệnh :
― Này tất cả huynh đệ nhìn kỷ đây
là ai, có phải những thằng Hán hôm qua làm mưa làm gió trong sơn trại Ly Bộ
không ? Quí huynh đệ sợ những thằng Hán này còn hơn sợ Nguyễn Chí Hà đúng
như thế không ?
Tất cả im phăng phắc người bỏ kiếm,
người bỏ đao xuống đất, kiếm đao chồng chất lên cao như một đống cây khô ngổn
ngang, lục lăng dư đảng sơn trại Ly Bộ đứng trân như tùng bách, có người mệt mỏi
tự nhiên ngồi như chuông.
Trạng thái của họ đang mất hết thần
sắc, không ngờ chỉ một đêm sơn trại Ly Bộ biến thành gió Thu thổi lá khô, họ
suy nghĩ vẫn vơ về đời mình sẽ đi về đâu, dù đã nghe lời chiêu an của Vương quyền
đã hứa.
Vũ Thư Minh lập lại một lần nữa để
bọn họ an tâm:
― Mỗ thay mặt Vương pháp không
tra cứu quí huynh đệ, nếu mỗ sai lời xin đem thân này trao cho quí huynh đệ,
tùy nghi chém giết. Mỗ xin lập lại một lần cuối:– Mỗ thay mặt Quế Lâm Vương đem
binh đến đây mục đích bắt Nguyễn Chí Hà và đồng đảng người Hán, việc bắt sống
đã thành công, riêng quí huynh đệ chỉ vì nhẹ dạ bị cám dỗ nên chưa phân được
chánh tà, đó là lẽ thường tình mỗ không trách mà còn đem lòng cảm kích, xin quí
huynh đệ bỏ kiếm đao về đời sống lương dân, còn muốn làm người hữu dụng thì
theo Cần Lĩnh Nam Giang Trung, nói chung tất cả quí huynh đệ không một ai bị
tra cứu, mỗ nói như vậy quí huynh đệ lấy lương tâm mà xét có phải đúng
không ? Quí huynh đệ nào đầu quân Quế Lâm xin đứng bên phải lập quân tịch,
còn quí huynh đệ nào xin về làm lương dân thì đứng bên trái lập dân tịch, chú ý
khi làm lương dân mà còn tái phạm thì cả gia đình cùng số phận.
Cuộc chiến Ly Bộ giữa Việt và Việt
không bị rơi đổ một giọt máu nào, tịch thu binh khí không biết bao nhiêu mà kể,
lương thảo nuôi hai ngàn quân được năm năm dư, quân tịch trên ngàn tám trăm người,
dân tịch bốn trăm người.
Vũ Thư Minh ra lệnh mật, âm thầm
đưa tù xa Nguyễn Chí Hà và sáu mươi người Hán di chuyển ra khỏi Ly Bộ đến đồng
bằng Quế Hà giam vào ngục Cần Lĩnh Nam Giang Trung.
Vũ Thư Minh thảo mật thư gửi đến
phòng tuyến hai, ba và bốn báo tin mừng, chuẩn bị bày trận mới đánh với Hán, trại
Ly Bộ lập phòng tuyến dụ địch Hán.
Tiếp theo có mật lệnh chiêu an của
Quế Lâm Vương :
― Quí huynh đệ trong sơn trại lập
binh tịch từ hôm nay lấy khu trại cánh hữu để luyện binh. Còn dân tịch đắp lũy
xây thành ở khu trại cánh tả, về ẩm thực mỗi huynh đệ được hưởng gấp ba lần và
nửa tháng sau tất cả dân tịch được đưa về nguyên quán.
Trong thời gian cắm trại, sinh hoạt
bình thường chỉ được vui cười, không được reo hò lớn tiếng, không được vỗ tay.
Hôm sau hai phòng tuyến mở rộng, để lại một phần nhỏ quân binh Quế Lâm, ám binh
vào cánh rừng rậm để người Hán tự do vào sào huyệt Ly Bộ nạp mạng, cánh quân của
Hoàng Phi Bằng rút về án ngữ lưng núi, thuộc biên giới Quế Lâm Nam Việt, nơi
đây bích núi hiểm yếu, còn lập thêm một vòng đai hào sâu, cánh quân Hoàng Anh
Tuấn rút về sơn trại, còn Vũ Thư Minh điều động quân binh mới gia nhập và quân
binh Cần Lĩnh Nam Giang Trung do Lê Chí Nam và Lữ Thư án ngữ vòng ngoài sơn trại.
Hoàng Phi Bằng bày trận dụ địch,
sáng sớm đã phát hiện có ba mươi người Hán hiên ngang lên sơn trại Ly Bộ. Hoàng
Phi Bằng cho giám binh lập tức báo tin cho Hoàng Anh Tuấn lập trận giả, người
Hán đi chưa đến phòng tuyến của Hoàng Phi Bằng đã nghe tiếng kiếm đao, tiếng trống,
thanh la thúc quân, đằng đằng sát khí, còn có những cột lửa trong trại cháy.
Quân Hán biết sơn trại có trận
chiến nhưng không biết nguyên nhân, họ tự ý lui binh về đất Hán biến dạng, vào
giờ ngọ hơn vạn binh mã Hán kéo quân tiến về hướng Ly Bộ, người Hán nhờ quân mã
đông phát hiện có quân Nam Việt hơn trăm quân đang ẩn mình tại hai cánh rường,
quân Hán tiêu diệt toàn bộ quân Nam Việt, họ cho đây là quân do thám, cũng may
còn ba giám binh Nam Việt chạy thoát được, về đến phòng tuyến báo tin cho Hoàng
Phi Bằng biết :
― Thưa tướng quân bọn Hán đến như
bay.
Tất cả sơn trại đồng phòng thủ, trung tâm trại
lập trận giả. Giám binh Võ Văn Học trình bào cho Hoàng Phi Bằng biết :
― Thưa tướng quân, người Hán sử dụng
binh khí như trăng khuyết rất kỳ lạ, tựa như lưỡi hái, họ phóng ra là lấy một
thủ cấp, không biết họ dụng như thế nào mà binh khí ấy hồi về trên tay.
Binh khí thứ hai, mỗi quân binh
tay hữu cầm trường kiến, tay tả cầm đoản kiếm, binh khí thứ ba tay cầm đao, tay
cầm đoản kiếm, khi kiếm hay đao chạm nhau là bị dính không cách nào gỡ ra được,
lúc này họ dùng đoản kiếm đâm vào trước ngực. Binh khí thứ tư họ dùng roi sắt từ
xa đánh tới chẻ thân người như chẻ tre, binh tướng của họ chưa biết mạnh cở
nào, nhưng thấy binh khí khác nào là búa thiên lôi.
Hoàng Phi Bằng cười thoải mái
không lấy gì sợ hải, giám binh an tâm, lòng binh sĩ tự tin. Chàng gọi phó tướng
quân Ngô Phước nói :
― Tại hạ nhờ phó tướng quân, lập
ba hàng dọc ụ đất xóp, nếu có đá sỏi càng tốt, cách nhau một trượng, mỗi hàng
ba mươi sáu ụ, mỗi ụ đất cách tam phân, tuyển một trăm tám cao thủ Cần Lĩnh Nam
Giang Trung, tại hạ trấn thủ tại vị trí trung tâm ụ đất thứ ba cũng là phòng
tuyến trung ương, còn hai tiền phòng tuyến chỉ là hư.
Ngô Phước vâng lời :
― Dạ. Đệ tử y lệnh của sư phụ.
Ngô Phước truyền lệnh khẩn, không
quá mười khắc đã lập ba hàng ụ đất, Ngô Phước thấy cũng kỳ lạ ra trận mà lập ụ
đất để làm gì, tại sao không dùng kiếm đao mà dùng đất ?
Nào ai biết đây là trận đồ
"Sai địa binh" do Phi Bằng đứng duyệt binh mã, đã có đủ một trăm tám
cao thủ ngồi vào vị trí, chàng hài lòng phi thân vào xuất binh điều mã.
Hoàng Phi Bằng tươi cười nói :
― Quí các hạ ra quân trên tay
không có binh khí, như vậy phải dùng quyền và nội công, tất cả ngồi sau ụ đất,
khi tại hạ hô một con số thì tất cả hai tay cầm đất ném tới trước mặt quân Hán,
cứ thế mà ra chiêu, nhớ chỉ xuất một phần nội lực. Khi tại hạ gọi chuyển qua tả
hay hữu thì quí các hạ chuyển theo cũng ngồi vào vị trí như trung ương, nhớ kỷ
nhé, bây giờ quí các hạ thực tập động tác xem nào ?
Hoàng Phi Bằng làm nháp hô một, tất
cả một trăm tám người đồng xuất chiêu ném đất, tất cả không ngờ đất bay xa như
vậy, với sức đất làm cỏ cây trốc gốc thành bình địa.
Hoàng Phi Bằng liền hỏi Ngô Phước
:
― Phó tướng quân đem binh ra trước
cách đây bảy trăm thước chia làm ba phòng ngự, đánh với địch, nếu đánh thắng
thì tiến, còn thua thì chạy về đây, tướng quân khá cẩn thận, đừng để hao binh tổn
tướng nhé ?
Ngô Phước hai tay thi lễ :
― Dạ, đệ tử vâng lệnh sư phụ.
Ngô Phước lập phòng tuyến thứ ba
chưa ổn định là có tin phòng tuyến thứ nhất thất thủ, có vài quân binh tử trận,
phòng tuyến thứ nhì cũng thất thủ, Ngô Phước đành phải vâng lời Hoàng Phi Bằng
chạy về trung tâm trận.
Mới ra quân mà đã hao binh tướng
trên hai trăm, Ngô Phước rút binh nhanh, địch quân tiến như vũ bảo đã đến gần
chỉ cách Hoàng Phi Bằng hơn mười lăm trượng, rồi chín trượng, địch Hán xuất
chiêu đầu, phóng hơn hai trăm binh khí hình lưỡi hái, Hoàng Phi Bằng hô xuất
quyền. Cát đất liền bay ra như mưa, mỗi hạt đất bám vào lưỡi hái rồi bay ngược
về phía địch lấy hơn hai trăm thủ cấp Hán, đặc biệt bảo cát chụp lấy "Tinh
sào" trên ngàn quân Hán.
Trận chiến lúc này chỉ cách nhau
bảy trượng, quân Hán e ngại bảo cát không dám tiến lên nửa trượng, nguyên soái
Mã Tử Di cầm binh chưa bao giờ hao binh tổn tướng, ông tự hào đời làm tướng hào
hùng chỉ thắng trận không hề thua, ngày nay chính Mã Tử Di cũng bị một vết
thương tại chân trái rất nặng nhưng ông không để lộ cho quân tướng biết, Mã Tử
Di thấy quân tướng tử trận, bị thương vô số, máu trong người ông sôi sùng sục.
Mã Tử Di bước ra trước trướng,
cùng một binh sĩ cầm cờ soái tướng, trên lá cờ thêu con hổ màu đỏ hình dáng
đang phóng đến vồ mồi và ba chữ tướng soái, Mã Tử Di giới thiệu :
― Chào tướng soái nhà Nam Việt, mỗ
xin giới thiệu thân thế, e rằng khi nghe sẽ tự lăng ra chết tại chỗ, mỗ là
nguyên soái họ Mã tên Tử Di, vâng lệnh triều đình đến đây dẹp loạn, vậy các hạ
hãy lui binh để bảo toàn tánh mạng, mỗ xuất binh không muốn thấy xác chết nằm
như rạ. Nói tiếp:– Ai là tướng soái tiền đạo xin mời xưng danh tánh.
Hoàng Phi Bằng đứng lên ra khỏi ụ
đất tiến về phía trước nói :
― Tại hạ là tướng soái dân quân
Nam Việt không thuộc quân binh của triều đình Triệu Vũ Đế, tại hạ họ Hoàng tên
Phi Bằng đến đây chỉ vì mục đích chiếm lấy sơn trại Ly Bộ làm của riêng, đã bắt
được tên dư đảng Nguyễn Chí Hà làm vật tế thần dân, trả thù cho trăm họ chết vì
y, không ngờ trong trại Ly Bộ cũng có người của quí quốc trú ngụ, tại hạ có bắt
được toàn bộ nhưng không hề bạc đãi họ, hiện sống bình an, được cung cấp cơm ăn
rượu uống bốn buổi sáng, trưa, chiều, tối còn tặng thưởng vàng bạc nữa.
Mã Tử Di hùng hổ, nói lớn :
― Tại hạ đem binh chinh phạt, xin
quí các hạ tránh xa.
Hoàng Phi Bằng cười không sợ hải,
sau khi nghe thân thế Mã Tử Di, lòng vẫn bình thản không thấy lăng ra chết như
lời của tướng soái Hán đã nói.
Hoàng Phi Bằng cười ha hà… rồi hỏi
:
― Thưa tướng quân, hiện giờ tướng
quân đang đứng trên đất Nam Việt, như vậy muốn chinh phạt trừ phản loạn thì phải
về đất nhà Hán mới phải chứ, tướng quân hãy xoay đầu về sau mà xem bên kia suối
Chân Thủy là đất Hán, còn nơi này là đất Việt. Việt–Hán lấy giòng suối Chân Thủy
làm biên giới, tướng quân đã vượt qua cầu Chân Thủy, hơn ba mươi trượng, như vậy
lẽ nào tướng quân vẫn còn chưa biết đây là đất Nam Việt hay sao ?
Mã Tử Di nghĩ thầm:– Thì ra dưới
trướng có người Hán bảo phụ đảng Nguyễn Chí Hà, nay mỗ vào Ly Bộ khác nào đồng
lỏa với chúng, bây giờ cuộc diện làm thay đổi quân binh.
Mã Tử Di nói liều :
― Thế thì trên trăm quân Nam Việt
vào đất đại Hán triều, án binh trong rừng bị tại hạ phát giác, như vậy quân của
các hạ cũng đã xâm phạm trên đất Hán trước, sách có câu "Thuận mã giả
xuân, nghịch mã giả dụng" phải thế không ?
Hoàng Phi Bằng hùng dũng đáp :
― Thưa tướng quân, theo suy đoán
của tại hạ những quân binh đó là đồng đảng Nguyễn Chí Hà từ sơn trại chạy vào đất
Hán, nếu đã bắt được họ sao tướng quân không tra xét để hiểu rõ địch hay thù, tại
hạ muốn biết sự thực quân binh của ai đã xâm phạm biên giới của quí quốc.
Mã Tử Di hăng mấu tiến quân và ra
lệnh giết hết người Nam Việt trên đường tiến quân. Lúc nào y cũng dùng sức mạnh
mà không dùng trí để đối địch, nay gặp phải địch thủ không đủ lời để biện minh,
y cũng thấy nước cờ đã đi sai một bước trước.
Mã Từ Di có cảm tưởng như trời
đánh một trận sét cháy thành cây thang trên lãnh thổ Nam Việt. Nhãn lực của
Hoàng Phi Bằng thấy Mã Tử Di hết bình tỉnh, đối chất cũng đã cạn lời, Mã Tử Di
muốn rút binh mã thì hổ thẹn phận làm tướng, còn tấn công thì khó nuốt, trước mắt
đã chứng kiến hơn một ngàn ba trăm binh tướng tử trận, chính ông cũng đang bị
thương.
Mã Tử Di tự thầm:– Chính thân mỗ
cũng đang đau đớn từng cơn, hai chân đứng không còn vững chắc, chỉ còn đủ bản
lĩnh như một thầy đồ ung dung thơ bút, mỗ không phải là người hèn nhác nói :
― Cuộc chiến đã như thế này, khó
mà vãn hồi, tại hạ đề nghị Hoàng tướng quân cùng tại hạ tranh hùng thay vì dụng
quân binh được không ?
Hoàng Phi Bằng cười thân thiện :
― Thưa soái tướng quân, như thể mới
có dịp cùng nhau bàn luận hưu chiến. Cho phép tại hạ trình bày đôi lời được
không ?
Hoàng Phi Bằng không muốn Mã Tử
Di bị mất mặt trước quân binh Hán. Mã Tử Di tay cầm đao đưa cho giám binh, chân
bước đến trả lời :
― Được lắm.
Cả hai tiến đến gần, cách nhau nửa
trượng thì đứng lại. Hoàng Phi Bằng tình ngay ý tốt nói :
― Thưa soái tướng quân, hiện tướng
quân đang bị thương nơi đầu gối của chân trái, khá nặng đấy, chỉ vài ngày sau
chân của tướng quân sẽ không còn nữa. Người làm tướng mà bị tàn phế thì khác
nào uy quyền mất hết, mất cả lưu danh anh hùng trong thiên hạ. Thú thực với tướng
quân, tại hạ có khả năng chữa trị vết thương này, nếu tướng quân không chê cười.
Mã Tử Di xanh mặt, tự nói:– Đúng
thế người làm tướng sợ nhất là để địch biết nội tâm và sức khỏe, gã họ Hoàng
này còn quá trẻ nhãn lực như thần, võ học như thế nào thì mình chưa biết, chỉ
thấy chân dung thư sinh trong trận đi ra, lời đối thoại cũng rất trong sáng,
tuy mỗ là hổ ngoài mặt trận, thế mà đứng trước một con mèo vừa trạc canh xuân
như con trưởng của mỗ.
Đời chiến binh của mỗ chưa bao giờ
nghe lời địch thủ, chưa thấy địch thủ cứu thù trong trận chiến bao giờ! Thế mà
hôm nay tiểu tử này nhã ý cứu mỗ, dĩ nhiên phải có nguyên ủy của nó. Thôi được
mỗ phải cầm lửa đỏ để biết bao nhiêu độ nóng, rồi hỏi :
― Các hạ đã biết tại hạ bị thương
à, như vậy vết thương hiện giờ nó có quy hiểm thế nào ?
Hoàng Phi Bằng cung tay thi lễ :
― Thưa soái tướng quân, vết thương
tại đầu gối của chân trái đang phát độc mạnh, gân cốt tê, nhức còn hơn kiếm đâm
vào thịt, chân thốn đau vào gan, vài hôm tủy xương sẽ bị thối, thế là chỉ còn lại
một đống thịt nằm dài trên mặt đất, sau đó thịt teo dần để lại bộ xương trắng.
Mã Tử Di nghe Hoàng Phi Bằng tả sự
chết của một vị tướng oai hùng vì vết thương, lời nói đúng thực không sai. Mã Tử
Di hạ giọng lịch sự nhỏ nhẹ hỏi :
― Cho tại hạ gọi thân mật nhé,
theo tiên sinh phải trị thế nào cho lành vết thương, mà cũng không bị tàn phế ?
Hoàng Phi Bằng ung dung trả lời :
― Thưa soái tướng quân, trước hết đừng để hai quân tướng Việt–Hán biết nội
vụ này, phải lập một lều vải, trong trại có một cái bàn tròn hai chiếc ghế, tại
hạ và tướng quân cùng đàm phán, đó chỉ là một cái cớ để tại hạ chữa bệnh trong
ba ngày cho tướng quân.
Bước kế tiếp tại hạ cùng tướng quân tuyên bố quân binh Việt–Hán đình chiến,
sau khi chữa lành bệnh hai bên ký hòa ước, tuyên bố biên giới Ly Bộ không xâm
phạm của nhau, còn về bồi thường chiến tranh, đó là kế giữ thể diện cho nhau.
Mã Tử Di hiểu được thâm ý của Hoàng Phi Bằng khen thầm:– Quả là Nam Việt có
lắm nhân kiệt, trí dũng, văn võ hơn người mới dám tiến vào trận, mỗ chưa xuất
chiêu mà đã bị thương ! Nếu trong trận thì đã thác rồi e rằng cũng mất thây,
đúng là bầu trời rộng bao la, anh hùng trong thiên hạ ở khắp mọi nơi, họ Hoàng
này đáng để thiên hạ chim ngưỡng, nay mỗ xem ra đã cùng đường, đúng là anh hùng
mạt lộ. Hoàng Phi Bằng thấy trên mặt tướng Hán chăm chiêu nét mặt có phần âu lo,
liền thưa :
― Thưa soái tướng quân chuẩn bị nhé ?
Hoàng Phi Bằng lập tức gọi giám binh Võ Hồng :
― Nhờ huynh đài lập gấp tại đây một lều vải thô, trang bị một đôi chõng
tre, một bàn tròn, hai chiếc ghế. Rượu, thịt, cơm, nước, bánh trái đầy đủ trong
ba ngày, tại hạ đàm phán chiến tranh cùng với tướng quân Mã Tử Di, bất cứ ai muốn
vào cũng phải chờ lệnh.
Giám binh Võ Hồng vâng lời :
― Dạ, thưa sư phụ đệ tử tuân lệnh.
Mã Tử Di thấy Hoàng Phi Bằng xuất lệnh rất nghiêm binh, còn nghe rõ tiếng
nói của giám binh xưng họ Hoàng Phi Bằng là sư phụ, trong lòng của Mã Tử Di lấy
làm kính trọng hơn.
Mã Tử Di gọi tả phó tướng Hán vào giới thiệu :
― Đây là tả tướng họ Hà tên Biên Từ, sẽ làm từ hàng cuộc chiến.
Tả tướng Hà Biên Từ cúi đầu chào, rồi lui về đứng sau lưng đại soái quân tướng
Hán.
Hoàng Phi Bằng cũng đáp lễ, Mã Tử Di xuất lịnh :
― Mỗ nhờ Hà tả tướng quân, kể từ giờ này hạ trại cách xa một trăm trượng,
đình chiến để đàm phán chiến tranh, nhớ dưỡng binh, lập quân tịch chôn cất tử
binh, chữa trị thương binh, cung cấp lương thực đầy đủ và cung cấp cho tại hạ
ba ngày rượu, thịt, bánh trái hảo hạng, không được vào lều khi chưa có lệnh.
Hà tả tướng Hán cúi đầu thưa :
― Thưa đại soái tướng quân, tiểu tướng nghe rõ, y lệnh.
Hoàng Phi Bằng nói đùa :
― Quả là tướng mạnh binh hùng, tướng soái uy quyền nhờ binh pháp, ngang dọc
chiến trường, vạn dậm tuyết sương phủ áo giáp, tại hạ không hổ thẹn chữa trị bệnh
nhân áo giáp đúng anh hùng.
Mã Tử Di suy nghĩ:– Một đời mỗ cung kiếm chiến trường, sức mạnh chưa hề bại,
tuy tính bướng bỉnh nhưng chưa hề chơi canh ba giàu sang, canh năm nghèo mạt (
cở bạc ), nhờ vậy mỗ không bị cám dỗ bởi vật chất, khi đứng trước quan trường
là một vị tướng thanh liêm không sợ cô độc, thân làm tướng soái một vùng rộng lớn,
dưới tay binh quyền vạn mã thế là không có một người thân giao, nay gặp Hoàng
Phi Bằng lấy địch kết nghĩa tình huynh đệ cũng hay, tuy là địch thủ nhưng hóa
giải được thù cũng không chừng là tốt hơn Hán.
Hoàng Phi Bằng bình nhiên :
― Thưa đại soái thướng quân, sử dụng chân bị thương đá viên cầu nầy thử
xem.
Mã Tử Di đá thử viên cầu bay xa nửa trượng, lòng ông thất vọng. Hoàng Phi Bằng
búng gió vào đầu gối của Mã Tử Di, thấy rất rõ một viên sỏi nhỏ bay ra ngoài,
rơi xuống nằm trên mặt đất, búng tiếp một viên thuốc cao Hoàng Hổ, thấy đầu gối
êm diệu không còn nhức nhối nữa.
Mã Tử Di lại suy nghĩ tiếp:– Một tướng trẻ của Nam Việt như thế này! Thảo
nào chưa xuất trận, mà mỗ đã mất trên ngàn quân tử trận, trên đời này lấm kỳ
tài. Lần đầu tiên mỗ đến chiến trường này, không biết lâu nay thuộc hạ của mỗ
trấn thủ vùng này có gặp những kỳ tài này không ? Mỗ phải tra xét thuộc hạ mới
được, nhất là trên sơn trại Ly Bộ này mỗ chưa hề nghe qua có những người Hán đó
là ai, cùng dư đảng Nguyễn Chí Hà ở đây để làm gì. Mỗ đứng trước bại trận nếu
vô phước cái đầu này đã đi đời rồi !
Hoàng Phi Bằng thấy Mã Tử Di tin tưởng mình, chàng liền hỏi :
― Thưa tướng quân chân đã khỏe chưa, xin tướng quân đá tiếp viên cầu này ?
Mã Tử Di có phần sảng khoái khẩn định :
― Đúng vậy tại hạ đã khỏe, để tại hạ đá thử xem thế nào.
Lần này viên cầu bay xa hai mươi trượng. Hoàng phi hỏi tiếp :
― Thưa đại soái tướng quân, nếu không bị thương có thể trái cầu nay bay hơn
năm mươi trượng.
Mã Tử Di cười rất vui, trả lời :
― Các hạ nói đúng lắm, tại hạ tập luyện mỗi ngày, dùng bao cát hai mươi cân
đá cầu bay xa mươi trượng, đã bị phế võ công giờ trở lại bình phục, đúng là mỗ
gặp tiên gia !
Hoàng Phi Bằng miệng cười lòng khen xã giao :
― Tướng quân là bậc nhân tài không thể nào chỉ một viên sỏi nhỏ mà làm phế
võ công được, tướng quân an tâm, tại hạ tin rằng sau ba ngày tướng quân sẽ đá
được quả cầu hai mươi cân, xin tướng quân chuẩn bị tiếp nhận viên thuốc gia
truyền của tại hạ.
Hoàng Phi Bằng búng vào người của Mã Tử Di viên "Hạc Chu Thảo"
không đầy năm khắc Mã Tử Di tự thấy trong cơ thể có luồn khí ấm chuyển qua nóng
rồi tan biến.
Mã Tử Di rất ngạc nhiên hỏi :
― Tại hạ không biết như thế nào, trong cơ thể có luồn khí ấm chuyển qua
nóng rồi biến mất, sức khỏe hiện thời dồi dào như thời tuổi ba mươi.
Hoàng Phi Bằng giải thích :
― Thưa tướng quân, vết thương tại chân là việc nhỏ, còn vết thương trong nội
tạng mới là đèn dầu trước gió, tánh mạng tướng quân tuổi mới bốn lăm, thế mà bị
độc dược châm từng ngày vào cơ thể, đến nay đã ba năm hơn. Cách đây một khắc
trong cơ thể có chứng bệnh kỳ lạ, như buồn nhiều hơn vui, ăn uống không biết
ngon, sức khỏe mỗi ngày suy giảm, mệt mỏi biến cử động. Bây giờ tướng quân đứng
lên vận động tay chân thấy thân thể thế nào ?
Mã Tủ Di hân hoan khen :
― Các hạ đúng là ân công cứu mạng, đã biết hết sự thực trong lục phủ ngũ tạng
của tại hạ, làm tướng sợ nhất là để địch biết sức khỏe mình, nhưng ở đây thì
chân thực cho nên lời nào cũng đúng. À bây giờ thân thể của tại hạ rất tráng kiện,
không còn mệt mỏi, trong lòng trở lại phấn chấn, một lần nữa đa tạ ân công,
nhưng không biết ai là thủ phạm cho tại hạ uống độc dược, thưa ân công tên độc
dược ấy là gì ?
Hoàng Phi Bằng chậm rãi trả lời :
― Thưa đại soái tướng quân, mỗi buỗi dùng cơm trưa, tướng quân ăn một thứ
rau có mùi vị thơm, chua rất hợp khẩu vị, gọi là sâm tía, hoa nhỏ bằng hạt đậu
xanh, màu đỏ, tuy gọi là sâm nhưng đây là sâm độc dược, người tặng loại sâm này
chính là thủ phạm, theo tại hạ biết hiện nay tại tư gia của tướng quân đang trồng
loại sâm này, đó là thủ đoạn của thủ phạm, muốn tự tay tướng quân ăn độc dược
sâm tía, như vậy không ai có thể khám phá ra được nguyên nhân !
Mã Tử Di nghe Hoàng Phi Bằng nói rất tường tận không sai một ly nào. Mã Tử
Dị thở dài suy nghĩ liên miên:– Đúng là trời cao còn thương mỗ, nếu không đích
thân đến đây thì hậu quả sự chết của mỗ không biết đâu mà tra cứu.
Mã Tử Di rùng mình, thân thể bỗng thu lại, rồi từ tốn nói :
― Đúng là tả tướng quân Hà Biên Từ hại mỗ, cũng nhở tiên sinh chỉ cho một
con đường sống. Ít ai ngồi trong trận biết ngoài trận, ở tại tư gia biết việc
thiên hạ, nhãn lực phi thường thấy nội ngoại tâm kẻ khác, tại hạ tâm phục, khẩu
phục, đúng là hiền nhân không phân biệt địch thù, mai này có thác tại hạ cũng
mang theo trong lòng họ tên của ân công Hoàng Phi Bằng.
Hoàng Phi Bằng chưa tin hẵn lời nói của Mã Tứ Di, lòng dè dặt mớm lời thăm
dò :
― Thưa đại soái tướng quân, ngày xưa tại hạ ở Giang Tô đất Hán, sau đó nhờ
tiếng gọi của tổ quốc, nên gia đình của tại hạ về Nam Việt sinh sống, từ ấy trở
thành quân tướng của Nam Việt Vũ Đế.
Mã Tử Di cũng chạnh lòng có ý định lập lại Tề quốc nói :
― Tại hạ cũng không phải là người Hán, sinh vào thời vong quốc, ngồi ở đây
chỉ còn trách phận trước bạc thời nay bạc phước, hy vọng người con trưởng sẽ thực
hiện được chí dũng vì Tề quốc. Mã Tử Di này nguyện nối gót theo chân của ân
công, thà làm trâu đất Tề còn hơn làm tướng đất Hán! Một hơi thở dài nói tiếp:–
À nhân dịp nay tại hạ lập ra một cuộc thanh trừng những kẻ phản phúc, nuôi ông
tay áo. Nhân từ với kẻ tiểu nhân là tự diệt mình, cho nên mới có hậu quả thế
này. Cuộc chiến này tại hạ cần lấy tướng diệt tướng, nhờ tiên sinh cử ra bốn tướng
kỳ tài, tỷ đấu với bốn tướng của tại hạ, quan trọng là không để tướng Hán sống,
có như vậy mới khám phá được nguyên ủy kẻ âm mưu hạ độc tại hạ, cũng để biết rõ
ai chủ mưu hổ trợ dư đảng Nguyễn Chí Hà và để biết mục đích của họ.
Hoàng Phi Bằng nghiêm nghị trả lời :
― Thưa đại soái tướng quân, kế sách đó rất hay, nhưng phải đưa vào nghị luận
đàm phám, có như vậy thì trừ được hậu chiến tranh.
Mã Tử Di đắc ý cười :
― Đúng thế, quân tử hay tiểu nhân chỉ cách nhau một suy nghĩ và trong hành
động, mỗ bao giờ cũng làm việc thuận với kỷ cương.
Mã Tử Di hỏi một lần nữa :
― Dưới trướng của tiên sinh có bốn tướng kỳ tài không, nếu không có thì khó
mà thành công, tiên sinh nhớ rằng trong chiến tranh không có đàm phán, đây là
việc làm hy hữu trong binh pháp Trung Nguyên, như vậy phải thảo ra văn bản trước
rồi hành động sau.
Hoàng Phi Bằng ung dung cười tự nói:– Xem việc đàm phám thành công trong
lòng bàn tay, chỉ lấy ra là có văn bảng, còn Mã Tử Di xem việc đàm phán rất phức
tạp.
Hoàng Phi Bằng bỗng nói ngôn ngữ Trung Nguyên để đàm phán, không cần bút
đàm :
― Tại hạ xin lập bảy điều đàm phán, sau đó đại soái tướng quân xem xét lại
rồi mới ấn ký và thực hiện phân biên giới.
Mã Tử Di khi gặp Hoàng Phi Bằng đến giờ mới một ngày, mà không biết bao
nhiêu sự kiện ngạc nhiên trong con người trẻ này. Ông tự hỏi:– Người trẻ Hoàng
Phi Bằng nói được ngôn ngữ Trung Nguyên giọng chính thống Giang Tô quê ngoại của
mỗ.
Lúc này Mã Tử Di như bị Hoàng Phi Bằng thu miên, tình cảm riêng tư ông kể hết
không giấu diếm một điều gì, đối với người làm tướng binh pháp là điều cấm kỵ không
được nói nửa lời sự thực trước địch thủ. Nguyên ông cũng là người lịch duyệt
hơn đời, không phải loại khờ khạo, ông đọc được tư chất của người khác, tuy
nhiên mẫu người lý tưởng biết sống vì thiên hạ ông luôn kính trọng, tính ông chân
thực nhưng cứng rắng trước kẻ phản trắc.
Thực vậy Hoàng Phi Bằng chưa bao giờ phản trắc ai, dù thâm giao hay sơ giao
cũng một lòng ân cần chiêu hiền đãi sĩ. Sau khi nghe Hoàng Phi Bằng nói thổ ngữ
mẹ đẻ của mình, Mã Tử Di rất hâm mộ. Hoàng Phi Bằng đọc bảy điều trong văn bảng
hòa ước cho Mã Tử Di nghe :
― Hòa Ước Việt Hán Nhâm Ngọ :
Điều 1 – Xét trận chiến Ly Bộ trên đất Nam Việt không thuộc biên giới Việt–Hán.
Nay dân binh Nam Việt bảo vệ cương thổ, hao binh tổn tướng hơn trăm. Quân tướng
Hán vượt qua biên giới Ly Bộ tử trận hơn ngàn. Trận chiến Ly Bộ sơn không phân
thắng bại. Tướng soái dân binh Nam Việt do Hoàng Phi Bằng chỉ huy, tướng soái
Hán do Mã Tư Di chỉ huy đồng ý ký hòa ước.
Điều 2 – Chiếu theo cương địa từ suối Ly Bộ cách núi Ly Bộ mười bảy trượng
chiều dài, địa điểm này ngày xưa đã lập biên giới của hai nước Việt–Hán. Ngày
nay Tướng soái dân binh hai nước quyết định ký hòa ước, nhằm vãn hồi trật tự để
biên giới Ly Bộ thái bình.
Dưới trướng soái tướng Việt–Hán tỷ đấu thắng không kiêu bại không thù. Sau
cuộc tỷ đấu trao trả tù binh, lập tức lui binh mã cùng ngày về bên kia Lĩnh Bắc
suối Ly Bộ.
Điều 3 – Trả tù binh chiếu theo danh sách năm mươi sáu người ( trên thực tế
sáu mươi chín người ).
Điều 4 – Biên giới Ly Bộ không lập cầu, không lập cư, không chứa thành phần
làm phản, điền canh mỗi bên cách biên giới mười trượng.
Điều 5 – Dân binh Nam Việt bồi thường chiến tranh mỗi tử binh năm lạng
vàng, mỗi thương binh hai lạng bạc.
Điều 6 – Mọi bất trắc tại biên giới, phải do triều đình hai nước Việt–Hán
cùng đàm phán.
Điều 7 – Biên giới Ly Bộ chính thức giá trị vỉnh viễn. Chiếu theo hòa ước
có bảy điều làm văn bằng, bảo đảm không cớ gì xâm phạm biên giới lẫn nhau.
Hòa ước thành lập tại trung tâm cầu Ly Bộ ngày 10 tháng 6 năm Nhâm ngọ.
Triều đình Hán Đế
Triều đình Nam Việt
Tỉnh Quế Châu nhà Hán
Tỉnh Quế Lâm nhà Nam Việt
Thay mặt lưỡng quốc Việt–Hán, đồng ký tên đóng dấu: Tướng soái nhà Hán Mã Tử
Di, tướng soái Hoàng Phi Bằng nhà Nam Việt.
Nhận và lưu: Hòa Ước Việt Hán Nhâm Ngọ.
Cả hai Mã Tử Di và Hoàng Phi Bằng đọc bản văn cười ngất ngưởng.
Mã Tử Di lòng vui miệng cười nói :
― Đây là văn kiện hòa ước hay nhất, nội dung chứa nhiều hậu ý, nói về thiển
cận thì Hán hưởng nhiều quyền lợi, nói về thiệt thòi thì Nam Việt không có gì để
mất. Nói về cá nhân người lợi nhất là tại hạ, còn tiên sinh vì mưu cầu thái
bình cho thiên hạ. Nói về quân binh tại hạ trên danh nghĩa là quân nhà Hán, còn
tiên sinh trên danh nghĩa là quân dân Nam Việt, đó là danh nghĩa thực sự không
sai. Tại hạ cảm kích vô cùng, à còn trong điều ba. Trả tù binh chiếu theo danh
sách năm mươi sáu người. Thực tế còn mười ba người không có trong danh sách tù
binh. Tại hạ không trách tiên sinh, đây là ý của bốn gã tiểu tướng Hà Biên Từ,
Thuật Lư, Mao Bình Ca, Chương Thứ cung cấp, vậy mười ba người Hán đó là ai thì
xin tiên sinh an tâm giữ lấy, đây là hậu chiến tranh trong binh pháp có hậu ý.
Hoàng Phi Bằng hỏi lần cuối :
― Thưa đại soái tướng quân, cơ thể bây giờ như thế nào rồi ?
― Tại hạ được phước lớn, nhờ tiên sinh chữa trị hết bệnh, còn tăng thêm
sinh lực nữa, ngoài ra gỡ được tai nạn trong nay mai, tiên sinh cứu được ba mạng
sống cho một người, tại hạ khâm phục, hẹn sáng mai tái ngộ.
Hoàng Phi Bằng hai tay cung kính chào :
― Chúc soái tướng quân bình an, sáng mai tái ngộ.
Hoàng Phi Bằng mời Vũ Thư Minh, Hoàng Anh Tuấn, Lê Chí Nam, Thanh Thủy, Lữ
Thư và Nguyễn Chung Kiệt cùng tám mươi chín cao thủ Cần Lĩnh Nam Giang Trung hội
ý.
Hoàng Phi Bằng trình bày nội vụ và đọc văn kiện hòa ước. Chàng trình bày tiếp:–
Còn một việc quan trọng khác, trong danh sách tù binh có năm mươi sáu người
Hán, còn lại mười ba người không có tên trong danh sách này là thành phần nguy
hiểm nhất, thúc thúc, quí đại huynh lấy danh sách điểm danh lại sau đó phân ra
làm hai trại tù, trại của mười ba người này canh gác nghiêm ngặt, không để sơ hở,
làm chòi canh cao quan sát, lập ba vòng canh, cho họ ăn no, rượu uống đầy đủ.
Trong điều hai hòa ước có câu: Các tướng dưới trướng soái, hai bên tỷ đấu
thắng bại không kiêu không thù. Nhờ thúc thúc chọn ra bốn cao thủ tỷ đấu với bốn
tướng Hán, mục đích là hạ thủ bốn tướng Hán, thì lột trần được bí ẩn trong sơn
trại.
Vũ Thư Minh hỏi lại :
― Thúc thúc nghĩ trong Cần Lĩnh Nam Giang Trung hơn trăm cao thủ có khả
năng thủ chiến với địch, nhưng chỉ cần bốn cao thủ thì ít quá! Như vậy thúc
thúc, quí huynh tỷ Hoàng Anh Tuấn, Lê Chí Nam, Nguyễn Chung Kiệt, Hoàng Thanh
Thủy cũng đủ diệt địch.
Lữ Thư đứng lên thưa :
― Thưa thúc thúc cùng quí huynh tỷ, những tướng Hán chỉ để một mình nữ Lữ
Thư cũng đủ sức lấy bốn thủ cấp, thúc thúc cùng quí huynh tỷ đệ còn nhiều việc
phải làm, như đốc thúc binh mã phòng thủ sơn trại v.v...
Điệt nữ đề nghị cử hai nam, hai nữ ra trận, như đại huynh Anh Tuấn, đại tỷ Thanh
Thủy, đại huynh Lê Chí Nam và Lữ Thư. Còn thúc thúc, Nguyễn Chung Kiệt huynh đệ
phòng thủ hậu trận.
Vũ Thư Minh khen thầm:– Lần đầu tiên bày trận có ẩn binh pháp phía trong,
nhưng mỗ không biết rõ khả năng võ học của Lữ Thư thế nào ? Tuy vậy vẫn tin tưởng
là hơn. Tất cả cùng đồng ý hai nam hai nữ tiếp trận .
Hoàng Phi Bằng đắn đo cân tài, đối với địch không thể coi thường nói :
― Thưa thúc thúc cử người phi mã tốc hành đem Hòa Ước, biểu văn tấu về triều
đình và Quế Lâm Vương.
Vũ Thư Minh nhận biết tình hình có diễn biến :
― Đúng vậy, Phi Bằng nhi nói đúng lắm, thúc thúc cử người cấp báo đi từ bây
giờ, Phi Bằng nhi à đêm đã khuya đi ngủ sớm, ngày mai còn nhiều việc quan trọng
phải làm.
Hoàng Phi Bằng vâng lời, đứng lên vừa đi miệng nói :
― Đa tạ thúc thúc nhắc nhở, hài nhi đi ngũ liền.
Mã Tử Di về đến trại tập hợp quân binh nghe đọc Hòa Ước, biểu văn, cử quân
binh khẩn tấu về triều đình và phủ Quế Châu. Sau khi quân tướng binh mã nghe
qua Hòa Ước tất cả đồng vui mừng hoan hô. Thực tế đã thấy mới tấn công đợt đầu
mà đã bốc hơi hơn ngàn binh tướng, chưa sáp trận mà đã chết như trận hồng thủy
phát cơn giận như thời thượng cổ.
Riêng các tướng Hán có một suy nghĩ chung chung, lòng đố kỵ và lo sợ tướng
soái Nam Việt, họ nghe qua trình bày của Mã Tử Di và họ thấy được trận chiến đã
qua, cũng là lần đầu tiên họ biết Nam Việt ngoài dụng binh còn dụng văn đàm
phán. Quân tướng Hán tự nhận biết cuộc chiến tuy chưa bại nhưng đã biến thành
thắng trận nhờ đàm phám.
Về Bốn tướng Hà Biên Từ, Thuật Lư, Mao Bình Ca, Chương Thứ hớn hở, tự cho
mình võ học cao thâm hơn người, đồng xin ra trận thách thức tướng Nam Việt.
Tướng quân Mao Bình Ca tự hào dũng mãnh nói :
― Quí các hạ là tướng quân phải hiểu trong điều hai của Hòa Ước có ghi rõ.
Các tướng dưới trướng đại soái hai bên tỷ đấu thắng không kiêu, bại không hận
thù. Đây là dịp lịch sử ghi danh thiên thu xin quí các hạ cùng tại hạ xuất một
chiêu trừ bọn dân binh Nam Việt, hãy cho họ thấy sức mạnh tướng quân nhà Hán
ta, chỉ một trận này cho toàn dân Nam Việt vào giấc ngủ chập chờn khiếp đảm,
đây là dịp tốt để quân binh ngưỡng mộ tứ tướng Trung Nguyên.
Tướng quân Hà Biên Từ đứng lên phát biểu :
― Tại hạ cùng Thuật Lư, Chương Thứ đồng ý phát biểu của tướng quân Mao Bình
Ca.
Thực ra trong tâm tư của bốn tiểu tướng Hán đã là một cấu kết, mục đích nhằm
bí mật hạ thủ Mã Tử Di bằng độc dược, họ rất khôn ngoan chỉ chờ sau khi trừ được
Mã Tử Di, mới thực sự lấy Ly Bộ sơn, làm sào huyệt mở đường tiến binh vào đất
Nam Việt, hiện nay uy quyền của Mã Tử Di là núi cao cản trở lớn nhất. Tuy có cản
trở nhưng trong Hòa Ước mở đường tấn công Ly Bộ sơn, lúc ấy dù Mã Tử Di phản đối
hay chưa chết cũng tùy thuộc vào thời cuộc thắng bại của tứ tướng.
Mã Tử Di cười ngụ ý đã đưa được bốn thằng khả ố vào tử huyệt, tuy biết thế
lời vẫn ôn tồn :
― Mỗ khuyên quí tướng quân phải cẩn thận trước khi quyết định, muốn thắng địch
thì phải lấy sở trường võ học, tứ tướng kỳ tài đương nhiên khống chế được địch,
đó là niềm vui mừng lớn nhất của mỗ, nhớ đừng để tại hạ thất vọng nhé ?
Tiểu tướng Chương Thứ lời dõng dạc :
― Đương nhiên tay đao này, đến không hình đi không bóng thì phải thắng trận
đầu.
Toàn quân binh Hán hò reo, hoan hô, chúc tụng tứ tướng Hà Biên Từ, Thuật
Lư, Mao Bình Ca, Chương Thứ mã đáo thành công.
Sáng hôm sau Mã Tử Di và Hoàng Phi Bằng đến lều vải duyệt trận, hai bên
chào nhau. Binh mã tứ tướng phó soái hai bên đứng chỉnh tề tiến vào vị trí tỷ đấu,
tay kiếm tay đao hừng hực bốc khí.
Mã Tử Di và Hoàng Phi Bằng ngồi vào bàn tròn trước lều vải duyệt trận.
Hàng ngũ tướng Hán đứng thế tấn công, gồm có tứ tướng như Hà Biên Từ, Thuật
Lư, Chương Thứ, Mao Bình Ca, bên dân quân Nam Việt thế thủ, gồm có Anh Tuấn đứng
đầu, Thanh Thủy, Lê Chí Nam và Lữ Thư.
Mã Tử Di vốn binh mã dày dạn kinh nghiệm, ông thất vọng tướng Nam Việt quá
yếu thế, bốn hổ bốn mèo khác biệt, trước mắt có hai nữ, hai nam thân cốt mảnh dẻ,
đi đứng không được oai phong lắm, tuổi quá trẻ từ đôi mươi đến mười tám, võ học
thì chưa biết kỳ tài hay là vô dụng. Ông thở dài hỏi nhỏ Hoàng Phi Bằng :
― Thưa tiên sinh, tứ tướng của Nam Việt như thế nào có khả năng giết được tứ
Hán không ?
Hoàng Phi Bằng hiểu được ý của Mã Tử Di đang lo xa, nói nhỏ :
― Người đứng sau cùng là nữ danh tướng Lữ Thư, trong binh pháp có nói
"Nhất cự tứ" là tỷ tỷ của tại hạ đó ạ.
Mã Tử Di tạm an tâm :
― Tốt lắm tại hạ hy vọng cuộc đấu này ân công toại nguyện công thành.
Mã Tử Di đứng lên truyền lệnh mở cuộc đấu:
― Tứ tướng Hà Biên Từ, Thuật Lư, Chương Thứ, Mao Bình Ca vừa nghe lệnh phi
thân vào bố trận, lòng háo sắc của bốn tướng Hán nổi lên:– Nếu bắc sống hai con
mèo nữ thì được cung hỷ phát tài bá nghiệp, trọn hưởng trinh nữ có dày có mỏng.
Lời khích tướng của Mã Tử Di có ý riêng, Hoàng Phi Bằng cảm thông lời phát
biểu vừa rồi, còn Thanh Thủy, Lữ Thư đương nhiên nghe qua rất chói tai, cũng là
lời cố ý nhắc nhở đừng để rơi vào tay tướng Hán.
Hoàng Phi Bằng đứng lên tay chỉ vào trận xuất lệnh :
― Hởi anh hùng Nam Việt, cường tráng long mã tinh thần, "Nhất cự tứ",
địch thủ có đường tới không có đường về.
Cả bốn tên Hà Biên Từ, Thuật Lư, Chương Thứ, Mao Bình Ca đồng cười "há
hà" :
― Hãy nói ngược lại "Tứ cự nhất" mới đứng, "há hà" phần
thắng đã nắm trên tay, dù tứ cự tứ cũng phần thắng về bổn tướng, nữ hiệp kia tuổi
trẻ võ học cũng chẳng là bao, nội công cũng thế, thôi lui gót đi để mạng sống
lâu dài, đừng khùng điên đứng trước đao kiếm vô tình, đừng để thủ cấp lìa thân
không còn cơ hội để biết yêu, mỗ tha thứ trước khi đao chưa xuất vỏ, khi xuất rồi
đao bách chiến bách thắng, mỗ đã nói cạn lời sao còn đứng đó không chạy hả ?
Lữ Thư há sợ tướng Hán nói lớn .
― Thưa quí tướng quân, bổn cô nương đa tạ những lời nói võ chuột, nhưng đã
ra đến đấu trường rồi thì bổn cô nương chưa bao giờ há sợ ai, rút lui không phải
là chí khí của dũng tướng, đấu trường này thắng bại để phân lưỡng quốc và hai
dân tộc Bắc–Nam không thù oán, chỉ có thủ đoạn mới tìm đến thù oán, xin mời xuất
đao thử kiếm.
Tiểu tướng Hán tên Hà Biên Từ hô tấn công, xuất đao bao vây, chỉ cần một
đao hạ thủ gà mái tơ. Tiếng hô chưa dứt lời, bốn tướng đã xuất chiêu nhanh
không ai lường trước được, một vòng tròn ánh đao sáng đã bao vây Anh Tuấn,
Thanh Thủy, Lê Chí Nam và Lữ Thư trong trận.
Anh Tuấn, Lê Chí Nam, Thanh Thủy tay cầm kiếm theo võ nghiệp họ Hoàng, khi
xuất tức thì đổi chiêu số "Tuyệt Cao Kỳ Kiếm" và "Phong Tâm Kiếm"
riêng Lữ Thư một lúc xuất Ngọc Thanh kiếm và Hoàng kiếm.
Hoàng Phi Bằng ngạc nhiên, thì ra tỷ tỷ của mỗ cũng là cao thủ như ai, sáng
tạo được kiếm pháp sử dụng hai võ học cùng lúc, như vậy phải có đến hai não bộ
mới xuất chiêu kỳ ý.
Một tiếng thét thật lớn của Hà Biên Từ làm Hoàng Phi Bằng chú ý khen thầm:–
Đây cũng là kỳ tài trong đường đao quái dị. Chàng ngó qua đao pháp của Thuật Lư
thấy cũng phi phàm, nhìn kỷ đao pháp của Chương Thứ và Mao Bình Ca mỗi người đều
có sở đoản sở trường riêng, nội công tuy yếu nhưng muốn chuyển thành mạnh thì
phải nhờ đao pháp liên chiêu liên thức, nhìn kỷ cả bốn quả là dũng mãnh nhưng
trí lự chưa phải là uyên thâm, tuy vậy nếu họ thắng được Lữ Thư là nhờ số đông.
Tiếng hò hét của bốn người Hán luân phiên nhau không ngừng, đây cũng là một
thuật võ làm áp đảo tinh thần của địch thủ và cổ võ đồng đội, lối đánh tập thể
của họ kỳ lạ chiêu thức xuất một lược, rồi rời rạc, chiêu dài chiêu ngắn, có
lúc toàn là hư chiêu, rồi hợp thành thực chiêu, họ biến chiêu cũng thần kỳ.
Hoàng Phi Bằng thấy võ học của địch quân lòng để ý:– Võ học Trung Nguyên
cũng có ưu điểm nhưng khuyết điểm rất nhiều, không lấy gì xuất sắc, họ sử dụng
mưu mẹo đao pháp nhưng thiếu kỹ thuật đao pháp vô năng, một khi mưu mẹo bại lộ
thì đao vô dụng.
Tiếng đao kiếm vang lên như sấm sét, không còn phân biệt chiêu thức địch và
ta, chỉ nghe "keng keng…" liên thanh từ xa vọng lại, từ gần dội ra,
tiếng "vù...vù..." lao xao trong tim hồi hợp, tinh lực kiếm rung động
"vu...vu..." tiếng kiếm của Lữ Thư làm màng óc của địch muốn xuất huyết.
Nhất cự tứ dư hai trăm hiệp chưa phân thắng bại, chu vi đấu trường năm mươi
thước, đất đá, cỏ cây vô tình trở thành bình địa, mặt đất nhăn nhó, lồi lõm vì
vậy thế thủ trở nên phức tạp, bỡi đất lồi lõm tạo thành thế đứng chân cao, chân
tấp, chỉ lấy lại lợi thế nhờ phi thân.
Lúc này tứ tướng Hán đã thấm mệt, mỗi người cũng đã có vài vết thương hiểm
yếu đáng để ghi lòng, bào phục cũng hơn hai mươi tiếng xé vải.
Lê Chí Nam quyết thủ chờ địch sơ hở, kiếm pháp lấy đó làm cơ hội thọc sâu
vào địch thủ, tuy vậy cũng bị một đao xé bào phục, trúng thương tay trái.
Anh Tuấn và Thanh Thủy còn thừa nội lực, chiêu pháp chỉ mới xuất ba phần mười,
chú ý nhất là chiêu thức đao của đối thủ, lắm mưu mẹo quỉ quái, trên đướng sống
đao có một thép mỏng khi kiếm hay đao của địch thủ đụng vào tức thì bị kẹp lại,
thế là đoản kiếm thừa cơ xuất chiêu.
Lữ Thư phá được đao tướng Hán nhờ Ngọc Thanh kiếm, võ học của người Hán dụng
cương chế nhu, còn Lữ Thư dụng nhu chế cương, trong binh pháp có câu "Khi
cương suy thì nhu thịnh".
Mã Tử Di ngồi trong lều vải khen thầm:– Quả là nữ anh thư kỳ tài, trong kiếm
pháp còn có dụng trí tuệ, biết thôi thúc lòng háo thắng của kẻ vô mưu, khích động
nội lực của địch trở thành cạn kiệt, nếu như mỗ cũng bị nữ tướng lấy xác, bây
giờ đã thấy rõ chỉ còn thời gian kết thúc mà thôi, hiện giờ trên tay của nữ tướng
chỉ còn một thanh kiếm mỏng, còn thanh kiếm kia đã tra vào vỏ.
Tự dưng Mã Tử Di kinh vía thấy Lữ Thư từ dưới đất bay lên cao tưởng chừng bị
tứ Hán xúc lên trời bằng chiêu "Phá cầu ưng". Lòng bối rối, thở dài tự
nói:– Thôi rồi một chiêu này nữ tướng bị banh thây, rất tiết một nữ hiệp chết
trẻ quá !
Lữ Thư vừa đảo thân mình xuống, kiếm đã dính vào hai đôi mắt của nhị tướng
Hán, trong và ngoài trận thất kinh không biết vật gì như một đường dài sáng chiếu
làm cho hai tướng Hán phải lui ra nửa trượng.
Thực ra Lữ Thư đang xuất chiêu trong võ học "Bát Quái Lĩnh Nam"
nàng khởi động xuất chiêu thứ năm mươi bốn "Hỏa thủy vị tế" để biến đổi
địch, thành trạng thái việc chưa xong là chưa cùng, giải thực chiêu thức hóa vô
ảnh.
Ý của Lữ Thư dụng chiêu thứ năm mươi bốn cho đến chiêu sáu mươi bốn, để biết
thủ cấp của nhị Hán bị rơi xuống đất trong chiêu thức nào. Không chờ đến chiêu
thứ năm mươi sáu thì thấy hai vòi máu phun lên như rồng hút nước, thủ cấp hai
tên tướng Hà Biên Từ, Mao Bình Ca vừa xuất khỏi thân. Lữ Thư phi thân chụp lấy quăng
về phía quân binh nhà Hán, đội ngũ quân Hán bỗng dưng chạy tán loạn, bỏ mặt thủ
cấp Hà Biên Từ, Mao Bình Ca lăn vòng theo đường dài hơn mười thước, cuối cùng
quay tròn trên mặt đất, rồi im lìm, thế mới biết chim sống cùng cành, khi bị hoạn
nạn thì bay mỗi hướng.
Lê Chí Nam cũng không kém chàng xuất chiêu "Lôi thủy giải" cởi ra
sấm làm động hiểm tức là lây động trong nước, động ở ngoài chỗ hiểm, là thoát
khỏi chỗ hiểm. Chiêu tiếp theo "Phong thủy hóa" lìa tan, gió đi trên
nước, gặp gió tan ra bọt.
Hán tướng Chương Thứ đã chứng kiến bạn đồng mưu mất thủ cấp, cho nên đề
phòng đối thủ, nhưng cũng không qua khỏi con đường đồng liêu vừa đi qua cửa Âm
ty.
Anh Tuấn và Thanh Thủy trở thành trận đánh lưới bắt cá, vây bủa Hán tướng
Thuật Lư rơi xuống trũng nước, chưa kịp phi thân thì đã bị hai phía xuất cùng một
chiêu thức "Bát thuần khảm", gọi hồn sâu hãm hiểm, trong hiểm chứa nước,
gió xé tan cơ thể địch thủ và tặng thêm một chiêu nữa đưa thủ cấp tướng Hán rơi
xuống đất "bịch bịch". Lúc này trong ngoài trận thấy thân thể bốn tướng
Hán như đống thịt nhừ nằm trên mặt đất.
Quân binh Hán và Cần Lĩnh Nam Giang Trung cũng phải thán phục Anh Tuấn,
Thanh Thủy, Lê Chí Nam và Lữ Thư, quân Hán không còn háo hức thi thố trận chiến,
họ cũng thừa hiểu bên quân Hán còn ba cao thủ chưa xuất trận.
Mã Tử Di hài lòng đa tạ Hoàng Phi Bằng, ông ra lệnh lui binh mã về bên kia
suối Ly Bộ tuyên bố chính thức cương giới Ly Bộ thanh bình. Đúng lúc thánh chỉ
Lữ Hậu đến nơi công nhận biên giới Ly Bộ theo Hòa Ước Nhâm Ngọ.
Nam Việt và Hán triều trao đổi thánh chỉ ký Hoà ước, trao đổi biểu văn lưỡng
quốc, tiến hành trả tù binh, bồi thường chiến tranh. Mã Tử Di tiếp nhận năm
mươi sáu tù binh và nói với Vũ Thư Minh :
― Tại hạ nhờ tướng quân đem mười ba tù binh còn lại tra khảo để lấy lời khai,
rồi hành hình đừng để sống một tên nào.
Trong lúc tra xét mới biết trong mười ba người này có bốn đại tướng Hán âm
thầm liên kết lập hậu phương chuẩn bị binh mã để xâm chiếm Nam Việt, rồi sau đó
lật đổ triều đại Lữ Hậu. Việc làm trước nhất của họ là lấy Ly Bộ làm kho dự trữ
lương thảo, kim ngân, châu báu do Nguyễn Chí Hà cai quản, chiến lợi phẩm không
biết bao nhiêu mà tính cho hết, về lương thảo có thể nuôi được ba mươi vạn quân
trong mười năm, hai mươi kho binh khí. Bốn tướng Hán mới đến Ly Bộ đúng nửa
ngày, dự trù chiêu binh mã một tháng, không ngờ bị bắt sống.
Cần Lĩnh Nam Giang Trung do Vũ Thư Minh đích thân lập dang sách tù nhân Ly
Bộ, gồm có những tướng Hán như Chung Châu Định đương quyền ở Đông Kinh, tướng
Mã Vị Cường đương quyền ở Triết Giang, tướng Tăng Thành Hổ đương quyền ở Hồ Bắc,
tướng Chữ Hầu Trung đường quyền ở Giang Tô.
Về đại soái tướng quân Mã Tử Di đương quyền ở Quế Châu không ở trong âm mưu
này, kết hoạch do tướng Chung Châu Định, còn lại các tướng binh quyền nằm án ngữ
cương giới Nam Việt, mười người Hán còn lại là quan quân của mười tỉnh Trung
Nguyên.
Nam Việt Vũ Đế khi đọc biểu văn tấu về triều phải toát mồ hôi hột, không ngờ
nội vụ này lớn tầy trời, lâu nay tưởng Ly Bộ là một dư đảng nhỏ không để ý.
Trong biểu văn còn ghi chú lời của tướng Mã Tử Di "Tại hạ nhờ tướng quân
đem mười ba tù binh còn lại tra khảo để lấy lời khai, rồi hành hình đừng để sống
một tên nào".
Nam Việt Vũ Đế cho lời nói này là đúng, xuất chiếu chỉ truyền lệnh hành quyết
bí mật. Ngoài ra trong chiếu chỉ còn khen Cần Lĩnh Nam Giang Trung, kèm theo một
chỉ dụ của Vũ Đế triệu Hoàng Phi Bằng về triều khẩn.
Hoàng Phi Bằng tiếp nhận chỉ, nhưng đến cuối tháng Hoàng Phi Bằng lai kinh
yết kiến Vũ Đế. Biên giới Ly Bộ thanh bình, sơn trại trở thành nơi ban giao Quế
Châu (nhà Hán) Quế Lâm (Nam Việt). Vũ Thư Minh đề cử Nguyễn Chung Kiệt trấn ngự
cương giới Ly Bộ.
Mã Tử Di cùng Hoàng Phi Bằng chia tay nhau đồng hẹn:– Trời đất rộng mênh
mông có ngày gặp lại. Lúc chia tay Mã Tử Di lòng cảm kích tặng Hoàng Phi Bằng một
viên ngọc Thiên Thanh nói :
― Thưa tiên sinh, đây là ngọc Thiên Thanh bảo vật họ Mã, khi thấy ngọc như
thân quyến.
Hoàng Phi Bằng không chuẩn bị trước sự việc đưa đến thình lình, chàng lúng
túng cầm cây kiếm tặng cho Mã Tư Di nói :
― Tại hạ không có vật gì để tặng tướng quân, trên lưng này chỉ có một vật
gia bảo kiếm họ Hoàng, kính dâng tướng quân khi thấy kiếm như gặp họ Hoàng.
Mã Tử Di ngạc nhiên kiếm gia bảo mà người tặng cho mỗ thì quả là lòng người
chân tâm hào hiệp hỏi :
― Thưa tiên sinh, kiếm này là vật gia bảo không thể xa người, người không
thể xa kiếm thế thì tặng làm sao được chứ ?
Hoàng Phi Bằng giải thích :
― Thưa tướng quân nói đúng thế, nhưng tại hạ biết người mới trao tặng kiếm,
tuy nhiên kiếm này tướng quyân không sử dụng được, nhưng nó là gia bảo của tại
hạ, xin tướng quân am tâm tiếp nhận.
Mã Tử Di cầm kiếm trên tay thấy kỳ lạ lòng ngạc nhiên hỏi :
― Thưa tiên sinh, kiếm này với kiếm nữ hiệp Lữ Thư cũng là vật gia bảo hay
sao ?
Hoàng Phi Bằng thật lòng nói :
― Tướng quân tài tình, đúng vậy chính là kiếm gia bảo, nữ hiệp Lữ Thư là tỷ
tỷ của tại hạ mới biết sử dụng kiêm pháp họ Hoàng.
Mã Tử Di động lòng :
― Người giang hồ tặng kiếm như giao sứ mạng, tuy kiếm này tại hạ sử dụng
không được nhưng về tay tiên sinh thì nó hóa rồng, tại hạ khắc ghi trong lòng,
tiếp kiếm như tiếp ấn tín sứ mạng, đa tạ tiên sinh.
Ly Bộ Sơn khao quân, tặng thưởng kim ngân cho tất cả thành viên Cần Lĩnh
Nam Giang Trung và binh sĩ Quế Lâm, người cũ cũng như người mới, những người
theo Nguyễn Chí Hà nay về sống lương thiện cũng được tặng lộ phí và vốn liếng để
sinh sống.
Vũ Thư Minh còn nhắc nhở :
― Thưa quí huynh đệ, đây là tặng phẩm "Một vốn bốn lãi" chúc
thành công.
Nguyễn Chí Hà đem ra hành quyết tại Ly Bộ, còn bốn mươi hai đồng bọn dư đảng
Nguyễn Chí Hà đưa về Quế Lâm Phủ.
Lữ Thư, Hoàng Phi Bằng từ giả đại huynh Hoàng Anh Tuấn, tỷ tỷ Hoàng Thanh
Thủy, Lê Chí Nam, Nguyễn Chung Kiệt, tám mươi chín đệ tử và toàn thể Cần Lĩnh
Nam Giang Trung hẹn ngày tái ngộ.
Lữ Thư, Hoàng Phi Bằng về doanh trại Vũ Thư Minh vấn an tam Thúc Mẫu, nhân
dịp trao đổi đề nghị nuôi tam hiền đệ.
Hoàng Phi Bằng hứa :
― Sau ba năm, Tam hiền đệ đến ở với Lữ Thư, tam Thúc Mẫu đồng ý chứ ?
― Vâng, ta chấp nhận đề nghị của các cháu.
Hai chị em tạm biệt Thúc Mẫu ra đi biền biệt.
Huỳnh Tâm
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét