Giòng Máu Nóng Dạt
Dào
Huynh cùng đệ đặt bốn câu hỏi và
tự trả lời, câu hỏi thứ nhất. Đệ nhận xét họ La không có kiếm gia bảo, như vậy
ông lão này không phải là kẻ cướp kiếm, người cướp kiếm mới chính là họ La. Thứ
hai họ tên của lão này là người quen của La Đức. Thứ ba lão này cùng quê hương
với La Đức. Thứ tư võ học không phân thắng bại, như vậy là người đồng môn.
Trịnh Trường xem như đã gỡ được
các mối dây bị rối khen :
― Lý huynh dẫn giải rất hợp với đệ
không sai, như vậy huynh và đệ tối mai đến thăm lão và giới thiệu họ tên, quê
quán, gia gia của mình đễ lão xem mình như người thân có như vậy thì may ra biết
mọi sự, ngu đệ thấy lão có cảm tình với mình lắm.
Đúng hẹn Lý Bình Trung, Trần Kiếu
Oanh, Trịnh Trường, Quách Tuyết Băng đến phòng thăm lão.
Vừa bước vào cửa phòng ông lão hớn
hở liền nói :
― Lão chào tứ thiếu hiệp.
Gặp lại ông rất vui mừng, Trịnh, Trần,
Lý, Quách cũng cúi đầu chào theo lễ cung kính bề trên.
Ông lão tỏ bày vui mừng như người
bị khác nước nói :
― Lão kính xin chúc sức khoẻ đảng
trưởng và quí thiếu hiệp.
Lý Bình Trung, Trần Kiều Oanh, Trịnh
Trường, Quách Tuyết Băng gỡ mặt nạ ra để ông thấy mặt thực, rồi bịt lại như cũ
nói :
― Thưa lão tiền bối, chúng tại hạ
họ Trịnh tên Trường, còn đây là nghĩa huynh họ Lý tên Bình Trung, tỷ tỷ họ Trần
tên Kiều Oanh quê hương huynh đệ của tại hạ ở huyện Giao Đỉnh thuộc Quế Lâm gia
gia của tệ hạ là Trịnh Bảo thúc phụ là Trịnh Thành và nghĩa muội họ Quách Tên
Tuyết Băng quê thành Phiên Ngung.
Lão "ồ" lên một tiếng
nước mắt tự trào ra và kêu lên :
― Lão biết La Đức mắt lé, tai thấp,
chí cao mà tài sơ không làm được đại sự, có tướng mạo khá phương phi, nhưng lại
có cái đầu đặc, biết rất ít về trị chính lẫn quân binh, thường hành động theo cảm
tính của độc đoán, cho nên mới nhận hậu quả ngày nay.
Thú thực lão chính là Trịnh Bảo vẫn
còn sống, gia gia của hài nhi đây mà !
Tất cả bốn thanh niên đồng quỳ xuống
hành lễ tình thúc bá va cha con hội ngộ, Lý Bình Trung thưa :
― Thưa trọng phụ. La Đức chính là
"Ngọc thanh kiếm". Trọng phụ nguyên là "Thượng Thanh kiếm"
đấy ư. Còn gia gia của rinh đệ là "Thái thanh kiếm" hay sao ?
Bác cháu cha con cùng ôm nhau
khóc, trút hết sự đời đã trải qua khắc nghiệt, riêng Quách Tuyết Băng thì chưa
hề nghe nói về tâm khảm sâu kín của đôi huynh đệ Lý–Trịnh, nay mới biết lần đầu,
nàng cũng chạnh lòng thương lão Trịnh tiền bối và đại huynh Trịnh Trường.
Trịnh Bảo kể lại chuyện đã qua :
― Tất cả những lời hỏi của Lý điệt
nhi không sai điểm nào cả, nay hội ngộ mới biết hậu sinh khả úy. Trước đây nếu
lão không kiên nhẫn và chịu đựng nhục hình thì không có hôm nay, đã hơn mười
năm sống khắc nghiệt trong lao lý, nhục hình, tra khảo, đói khát, lạnh giá thấu
xương nếu như không duy trì được bản thân xem ra đã đến cửa Diêm la từ lâu rồi !
Ngày nay gặp lại hài nhi và điệt nhi trong lòng lão cảm thấy rất may mắn được
hưởng hạnh phúc này.
Trịnh Trường kể về thân phận thúc
bá Lý Bình Trương và nhất là ân công Hoàng Phi Bằng nay là nghĩa huynh đệ của
Trịnh, Trần, Lý, Quách.
Trịnh Bảo xúc động hỏi :
― Ân công Hoàng Phi Bằng thế nào,
có mặt ở trong sào huyệt này không ?
Trịnh Trường hai tay lau nước mắt,
trả lời :
― Thưa gia gia có ở đây ạ, chính
ân công Hoàng Phi Bằng là người đưa La Đức vào lao lý tại Việt Tú. Còn nữa mọi
kế hoạch chiếm sào huyệt Châu Minh là do người thực hiện, chúng hài nhi chỉ thi
hành mệnh lệnh của người.
Trịnh Bảo vui mừng rơi lệ nói :
― Quả là tuấn kiệt phi thường biết
dụng trí thắng kẻ địch, không cần đổ máu mà xua đuổi được thiên binh vạn mã phải
xếp giáo qui hàng, ở đời này chẳng có mấy ai, thúc thúc có thể gặp được người
này không ?
Lý Bình Trung trình bày thêm để
cho thúc bá Trịnh Bảo hiểu chi tiết về Hoàng Phi Bằng :
― Thưa trọng phụ, về mặt kết
nghĩa thì hài nhi gọi Hoàng Phi Bằng hiền đệ, về thực tế chính là sư phụ của
chúng hài nhi. Hoàng Phi Bằng là một mưu sĩ lỗi lạc thời nay, lấy thân dâng hiến
cuộc đời chỉ vì Bách Việt. Nhầt là những ngày vừa rồi rất diệu kỳ, chính Hoàng
Phi Bằng lấy lại được "Ngọc thanh kiếm", "Thái thanh kiếm"
và phổ, hiện Lý nhi đang giữ, còn Trịnh đệ vẫn giữ "Thượng thanh kiếm".
Trịnh Bảo cười "ha hà…"
:
― Quí hài nhi có biết hết về ý
nghĩa của tam thanh kiếm này không ?
Lý Bình Trung liền đáp :
― Thưa trọng phụ, chúng hài nhi được một học sĩ
dẫn giải rất tường tận về Tam Thanh kiếm, còn nói về ưu khuyết điểm của kiếm
pháp nữa, sở trường võ học của mỗi thanh kiếm. Học sĩ ấy còn nói nếu cần tự luyện
Tam Thanh kiếm pháp này.
Trịnh Bảo không tin lời nói của Lý Bình Trung hỏi
lại :
― Không thể nào một học sĩ tầm thường mà biết được
kiếm pháp của lão, người ấy họ tên chi mà biết "Tam Thanh kiếm pháp"
vì đây là kiếm chỉ có đệ tử chân truyền mới biết mà thôi !
Trịnh Trường thi lễ cúi đầu thưa
:
― Thưa gia gia, người này chính
là đại huynh của ân công Hoàng Phi Bằng, văn võ uyên bác, thông kinh rộng sử
ngũ sa, tính nhân ái, đại huynh thương chúng hài nhi như em ruột, tên là Hoàng
Phi Khải, đặc biệt không lộ chân thướng, gia gia tiếp xúc sẽ đánh giá một kẻ khờ
khạo không môi miệng, nhưng nội thân là một kho tàng võ học, người công phu võ
học từ thư pháp mà thành, chính chúng hài nhi đã ở trong nhà này mới chứng kiến
thực hư và được đại huynh Khải truyền thụ diệu dụng của Tam thanh kiến pháp.
Trịnh Bảo vẫn chưa tin, rồi tự thầm:–
Cõi đời này có những chuyện thực giả khó tin và có những việc làm tin là thực
nhưng mà giả, như người ta thường hô hào tranh đấu để sống công bình. Thử hỏi từ
cổ chí kim và mai sau có công bình không, cộng đồng nhỏ hay lớn nào đã thực hiện
được công bình chưa, thậm chí người thực hiện công bình thì chính công bình giết
họ ! Nói chi xa Tam thanh kiếm pháp là nguyên bản chủ thuyết công bình thế mà kẻ
cầm nó lại đi ngược nó để giết người vô số, thà không biết chủ thuyết công bình
như vậy sống thoải mái hơn không ? Một hơi thở ẩn ý thường tình rồi hỏi :
― Các hài nhi đã luyện tập thành
công "Tam thanh kiếm pháp" chưa ?
Lý Bình Trung suy nghĩ một hồi rồi
đáp :
― Dạ, đã đến trình độ thuần thục
rồi và hiểu được một phần công dụng của nó, hiện "Ngọc Thanh Kiếm" được
đại huynh Hoàng Phi Bằng bổ túc thành chiêu kiếm siêu kỳ. Nói cung kiếm pháp của
"Tam Thanh kiếm" khắc chế chiêu số đã thay đổi nhiều rồi, trong kiếm
còn có bổ túc kiếm pháp họ Hoàng. Sau này có dịp gia gia gặp đai huynh Khải sẽ
rõ hơn.
Trịnh Bảo âm thầm xúc động, lời
nói hơn nghẹn ngào hỏi :
― Hôm nay cả nhà đã đoàn tụ, vậy
thời gian tới các hài nhi phải hành sự thế nào ?
Lý Bình Trung thưa :
― Thưa trọng phụ, hiện nay trong
đảng Châu Minh không ai biết họ tên của trọng phụ, vậy kính nhờ trọng phụ làm
phó đảng, tên họ chính danh Trịnh Bảo để điều hành đảng chúng, hiện nay có ba đảng
vụ rất sợ trọng phụ, mình đang cần người cho nên ân tứ cho họ, mục đích thu phục
nhân tâm, biến họ qui thuận mình, họ sẽ là con hổ giang hồ và chúng ta là ân
nhân của con hổ. Thưa trọng phụ việc cần làm trước mắt là đảng Châu Minh sẽ
đánh quân Hán từ sau lưng đánh tới, hiện nay Châu Minh được nhà Hán nuôi để làm
phản Nam Việt, những ngày tới trọng phụ ra sức luyện tập cho đảng chúng được tinh
nhuệ. Sau khi phản Hán là trừ luôn các đảng vụ người Hán, lập đảng vụ người Việt.
Hiện nay tuy sào huyệt trên đất Hán nhưng đường giao thông Việt Hán do Châu
Minh kiểm soát bảo vệ an toàn, tự nó biến thành lực lượng phản Hán.
Trịnh Bảo lòng háo hức khôn xiết vì
đã lâu lắm không có dịp hành hiệp, miệng cười nói :
― Kế hoạch tốt lắm, gia gia sẽ thực
hiện được những gì mà quí hài nhi tin tưởng ở nơi gia gia, ngày mai tiến hành
ngay không thể để lâu nhé ?
Hoàng Phi Bằng đưa La Đức về đến
đồ trận Việt Tú sơn, cùng lúc thảo thư mời tham dự đại hội, theo danh sách của
La Đức, Vũ thư Minh và Thái tử Hồ xem ra cũng trên trăm tên đồng lõa. Hoàng Phi
Bằng ra lệnh ba con đại hạc đưa tin cùng lúc mời Nam Niệt Vũ Đế, Thái tử Hồ và
nội tổ Hoàng Hạc đến Việt Tú sơn tham dự cuộc thẩm vấn. Trưa cùng ngày Nam Niệt
Vũ Đế, Thái tử Hồ và Hoàng Hạc đến Việt Tú sơn.
Hoàng Phi Bằng thi lễ cúi đầu tâu
:
― Muôn tâu Bệ hạ, Thái tử và nội
tổ, thần chúc long ân viễn sinh, anh minh, sức khoẻ cường kiện, dũng khí, kiến
tạo Nam Việt thanh bình, xã tắc cộng hưởng nhờ ân điển của Hoàng thượng điện hạ.
Nam Việt Vũ Đế lòng vui ban chỉ :
― Phi Bằng điệt nhi ở đây không
phải là hoàng cung, hay là Điện Thái Hòa trẫm miễn lễ điệt nhi bình thân. Hôm
nay điệt nhi thẩm vấn La Đức để quả nhân chính thức nghe những gì y đã làm phản.
Hoàng Phi Bằng tay chấp cúi đầu
tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng bệ hạ,
Thái tử và nội tổ chuẩn bị phi thân lên đỉnh bút đá mặt bằng, nhìn vào đồ trận
thấy La Đức đang ngồi chuẩn bị khai khẩu cung.
Nam Việt Vũ Đế khen :
― Phi Bằng điệt nhi dụng thức giương
cung bắng địch thủ không cần mũi tên. Khá lắm đúng là hổ ở rừng, rồng ở nước.
Thái tử Hồ thấy Hoàng Phi Bằng
chuyển động phi thân khác hơn những lần trước liền khen :
― Mã bộ tốt, biến long thành hổ,
người đời có nói "Ông bà lam lũ, cha mẹ chuyên cần để cho con cháu hưởng".
Câu này chỉ đúng một tâm trạng khác, còn Phi Bằng điệt nhi thì phải nói:
"Con cháu làm trâu ngựa cho cha mẹ được hưởng".
Nam Niệt Vũ Đế, Thái tử Hồ và
Hoàng Hạc đồng cười, Hoàng Hạc nghe Vũ Đế và thái tử Hồ khen ngợi Phi Bằng, ông
sợ tuổi trẻ không giữ được lòng trung, rồi nói đỡ lời :
― Muôn tâu Bệ hạ, chúng thần mang
ơn đức của triều đình dù một giọt nước, thì bổn phận phải phối ơn một túi nước.
Đó là chính thường tình của thần dân. Đái hoàng ân bát ngát của Thiên tử đã cho
Phi Bằng nhi quá nhiều không còn chỗ chứa, thần đa tạ điện hạ.
Nam Niệt Vũ Đế cười nói :
― Quân thần gầy ốm để cho thiên hạ
mập mạp đó là điều nên làm, nếu toàn Bách Việt vì Nam Việt, như quân thần đây
thì không có những Lê Vĩnh và La Đức, hãy xem hình hài quân thần ở đây có ai ú
núc, bụng phệ đâu, nếu quân thần ú núc và trí tuệ kím thì thiên hạ không được
hưởng hạnh phúc. Hy vọng mai này thiên hạ no cái bụng và nó cái đầu, mới có khả
năng bảo vệ Bách Việt một nhà Nam Việt .
Đến lúc Hoàng Phi Bằng thẩm vấn
La Đức :
― Mục đích của ngươi đến Việt Tú sơn
để làm việc gì, có bao nhiêu lực lượng, họ từ đâu đến, ai hợp tác với mi ?
La Đức trả lời tự nhiên :
― Thưa thần linh, tại hạ đến đây
để tổ chức đại hội đánh chiếm Nam Việt, mục đích cửu đỉnh đứng trên thiên hạ
làm Hoàng đế.
Liên đảng Châu Minh thống nhất
thành một lực lượng, đảng chúng trên hai ngàn, hiện đóng trại ở bênh kia đất
Hán, do nhà Hán đứng ra trợ lực, khi chiến tranh biên giới thì người Hán xuất
binh đi trước, tại hạ đi sau lập trị chính Nam Việt.
Lực lượng phát xuất từ mọi nơi
như biển lớn có mây ám phiêu đãng, khói sương chứa lưu huỳnh, kiếm pháp kiệt
nhân, phi mã bốn bề náo động, giong ruổi khắp chiến trường, tướng quân chiến mã
cờ bay phất phới, lòng nô nức làm việc lớn sẽ thành công. Những người hợp tác
đương nhiên là phải có quyền lực, đứng đầu tại triều đình nhà Triệu.
Đứng đầu văn thì có Cửu viện Thượng
thư Triệu Không Cương, Tư Đồ Triệu Đạt Hùng, Thái Úy Triệu Mẫu Phương, Thái phó
Phùng Hảo Anh, Quan Thị Ngự Sử Bạch Đình Hồng.
Quan võ thì có Triệu tướng quân
Phương Đa, Tá trung lang tướng quân Trần Hoàng Thư, Chinh tây tướng quân Lê
Thông, Tiền tướng Quân Nguyễn Bạch.
Đứng đầu Tôn nhân phủ có Triệu Tú
Hải, riêng Triệu Nguyên Dõng đứng đầu các châu phủ.
Hoàng Phi Bằng nghiêm nghị hỏi tiếp
:
― Bao giờ đại hội, đến nay thiệp
mời đã ban ra chưa, thử hỏi họ có vâng lời ngươi đến đây tham dự đại hội không.
Trước đây mi phụ trách tuyển mộ nhân tài ở đất Trường Sa rồi âm thầm đưa qua
Hán để bán, như vậy làm sao cấu kết được với người Hán ai chi trả, rồi lời lãi phân
chia thế nào, còn phương thức dâng đất Nam Việt cho Hán sẽ diễn ra thế nào ?
La Đức liền trả lời rành mạch :
― Thưa thần linh, đầu tháng này đại
hội mở ra, thiệp mời đã ban hành rồi, họ sẽ là đại thần của triều đại Việt Minh
do tại hạ nắm triều cương ngôi trên ngai vàng trị chúng, họ đã đồng ký tên trước
khi thiệp mời đến tay họ, thì không có lẽ nào từ chối.
Nói về tuyển mộ người trẻ khoẻ mạnh
đưa qua bán cho Hán cứ tính theo đầu người là một lạng vàng, do nhà Hán chi trả,
phân chia tại hạ được lợi tứ, các quan Nam Việt được lợi lục, đúng là "Ngồi
mát ăn bát vàng", liên kết với nhà Hán qua trung gian tướng La Đình Bình
nguyên là soái tướng Nam kinh thay mặt triều đình nhà Hán, đảng Châu Minh tiến quân
xuống thành Phiên Ngung thì nhà Hán cũng đưa quân vào Nam Việt để yểm trợ,
thành công chia đôi phía Bác nhà Hán cai trị, phiá Nam do tại hạ trị.
Hoàng Phi Bằng xem như đã lấy lời
khai đầy đủ, rồi lịch sự nói :
― Mỗ chúc ngươi thành công !
La Đức để hết lòng tin vào sự
nghiệp phản tộc nói :
― Tại hạ nhờ thần linh hộ trì.
Hoàng Phi Bằng cười ha hà… :
― Tốt lắm ngày ấy mỗ cũng tham dự,
nhưng vẫn ở trên trời phán xuống, chào La Đức.
Hoàng Phi Bằng ra hiệu cả bốn người
phi thân xuống đất.
Nam Việt Vũ Đế liền truyền chỉ :
― Quả nhân tự làm ngơ xem như
không biết nội vụ này, để họ tự do triệu tập quân quan, sau đó mới bắt trọn chúng,
ngày đầu tháng Muội tử Hồ và Phi Bằng điệt đến đây điểm danh từng người một,
giam họ trong đồ trận chờ sau ngày thắng trận biên giới sẽ đem họ ra pháp trường
cũng chưa muộn.
Còn những việc liên hệ của bọn
làm phản, Phi Bằng điệt nhi tự hành động lấy, không cần phải tâu lên Quả nhân,
chỉ mong kết quả tốt là Nam Việt thái bình. Quả nhân rất hài lòng, khanh hãy tiếp
chỉ:– Hộm nay Hoàng Phi Bằng chính thức nhận trách nhiệm Mật Hiếu của Trẫm.
Hoàng Phi Bằng cúi đầu tiếp chỉ :
― Muôn tâu bệ hạ, hạ thần Hoàng
Phi Bằng kính cẩn tuân chỉ.
Nam Niệt Vũ Đế, Thái tử Hồ và
Hoàng Hạc theo xa giá về lại hoàng cung.
Hoàng Phi Bằng đi Quế Lâm thăm Vũ
thúc thúc, ngũ cô mẫu và thăm nội tổ Hoàng Trung Nhất, chàng vào địa giới Quế
Lâm trời đã sáng, chàng và đại hạc tạm ngủ dưỡng sức trên núi Hộ Miêu Nham, từ
cao nhìn xuống là một sơn thủy trữ tình, gió thổi hiu hiu, người vật cùng ngủ
say đến giấc hương quan chiều. Thức dậy cho đại hạc ăn uống, ba khắc sau lên đường,
không đầy hai canh giờ là đến thành Quế Lâm phủ Lạc Việt Vương.
Hoàng Phi Bằng vào sảnh đường quỳ
xuống hai tay bái nội tổ Hoàng Trung Nhất, sự xuất hiện của Hoàng Phi Bằng, làm
cho Hoàng Trung Nhất bất ngờ không nghĩ rằng cháu nội đến vừa lúc hoàng hôn.
Hoàng Trung Nhất gọi cả nhà lên sảnh đường để cùng nhau vấn an :
― Hoàng Phi Bằng cúi đầu thi lễ vấn
an cả nhà.
Hoàng Trung Nhất vui mừng những
con chim về đất tổ, ông nói :
― Điệt nhi à, nội tổ Hoàng Hạc và
cả nhà khỏe chứ. Họ Hoàng nhà ta dù đi đâu cũng nhớ đất tổ, điệt nam ngoan
ngoãn lắm, à điệt nam đã biết hết tình hình hoạt động của "Thiếu
Quân" và "Cần Lĩnh Nam" ở đây chưa ?
Hoàng Phi Bằng chấp tay thưa :
― Thưa nội tổ, Phi Bằng nhi không
am tường nhiều ạ .
Hoàng Trung Nhất rất hài lòng những
sinh hoạt này có thành quả, ông chuẩn bị trình bày, tức thí Hoàng Phi Bằng tiếp
lời thưa :
― Thưa nội tổ, đất tổ là nơi nuôi
anh hùng, cũng nhờ nội tổ tạo sự nghiệp của Thiếu Quân và Cần Lĩnh Nam.
Hoàng Trung Nhất khen thầm:– Giá
gì họ Hoàng nhà ta có vài Hoàng Phi Bằng thì hay biết là bao. Hoàng Trung Nhất
trực nhớ Hoàng Phi Chỉnh sinh ra hai trai một gái tên Hoàng Phi Khải, Hoàng Lữ
Thư, Hoàng Phi Bằng là con út.
Hoàng Trung Nhất vội hỏi tiếp :
― Gia gia, mẫu thân, cùng huynh,
tỷ của điệt nhi thế nào. Nội tổ có nhận tin Hoàng Phi Khải được triều đình
phong quan học sĩ có phải thế không ?
― Thưa nội tổ, điệt nhi chưa về
nhà, cho nên không biết tin này, nếu thực vậy thì cũng xứng đáng lắm vì đại
huynh uyên bác văn võ và hành động chừng mực, ngoài ra đại huynh rất đôn hậu
không tranh đua với ai.
Hoàng Trung Nhất khen :
― Họ nhà mình, thời nào cũng xuất
hiện tinh tú, đã hơn mười hai đời tiên tổ võ học hiển hách, văn kinh luân xuất
chúng, dâng hiến cả đời vì Bách Việt, tuy nói vậy rồi cũng có ngày cây lành mà đất
lại hết phân, hy vọng dù đất xấu người vẫn tốt, cháu nhớ khuyến khích đời sau để
lưu truyền sở học nhé .
Hoàng Phi Bằng
― Dạ, Thưa nội tổ, điệt nhi về đây
để hương khói tổ tiên cũng là dịp thăm nội tổ. Chặp nữa hài nhi sẽ đi đến Thiếu
Quân, Cần Lĩnh Nam và nhiều nơi khác, trước khi đi điệt nhi kính bái nội tổ
cùng quí thúc phụ, huynh tỷ, hy vọng một ngày gần đây sẽ về thăm nhiều hơn.
Hoàng Trung Nhất vui nói :
― Đúng thế, nội tổ biết điệt nhi
không có thời gian nhiều, mỗi khi về Quế Lâm thăm viếng nội tổ như thế này cũng
an lòng lắm rồi, khi nào có thời gian rộng rãi thì về đây hàn huyên với nội tổ,
nếu điệt nhi cần việc gì gấp thì cho nội tổ phụ một tay tiếp ứng nhá.
― Dạ. Chàng thi lễ tổ đường và
trà nước đã xong xuôi rồi thưa:– Điệt nhi kính lễ chúc nội tổ và cả nhà cũng
bình an, tạm biệt.
Chàng đi về hướng Bắc, ngoài ngũ
khắc là đã đến Cần Lĩnh Nam Giang Trung vào đến sảnh đường gặp Vũ Thư Minh, ngũ
cô mẫu, Hoàng Anh Tuấn, Hoàng Thanh Thủy ( Huynh muội cháu nội của Hoàng Trung
Nhất), tam Chu đệ, Nguyễn Chung Kiệt, Lê Chí Nam đang bàn luận tổ chức lập trại
phát triển đội ngũ, đúng lúc gặp lại Hoàng Phi Bằng ai cũng vui mừng. Kẻ mời
người gọi vui nhộn, nhất là ngũ cô mẫu họ Chu.
Gặp nhau chưa kịp chào, Chu Ngọc
Thủy nhanh nhẹn đề nghị :
― Ăn trước chào sau. Tối nay cô mẫu
nấu một nồi cháo nấm rơm và chè đậu xanh với đường cát trắng để ăn đêm, lâu lắm
mới gặp lại Phi Bằng nhi, quí vị tự nhiên bàn luận, ta đi làm bà táo nhá .
Mọi người đồng đứng lên chào nhau
không phân biệt chủ khách. Hoàng Anh Tuấn liền trêu nghẹo nữ soái Chu Ngọc Thủy
:
― Thưa tỷ tỷ, đệ nghe đến chè đậu
xanh đường cát trắng là nhớ đến mẫu thân, hôm nay cho đệ gọi tỷ tỷ bằng mẫu
thân nhá, cả nhà đồng cười.
Vũ Thư Minh mờ tất cả vào đề bàn
thảo :
― Thúc thúc trình bày sơ qua để
Phi Bằng nhi am tường của nội bộ. Ngày nay Trường Sa Vương do gia phụ thay thế,
đã trình tấu về triều, các tướng quân vẫn giữ nguyên. Việc quan trọng nhất là
phát triển Cần Lĩnh Nam Giang Trung và Thiếu Quân, riêng Cần Lĩnh Nam Giang
Trung hiện nay đã có trên một ngàn ba trăm tráng binh tinh nhuệ, trải rộng từ Tây
qua Đông, tại Tượng Quận biên giới có các trại giao dịch, như Minh Tha, Giang
Thắm, Hợp Nội lộc, Hồng Hoa, Mã Quang, Hồng Tự, Tây Châu và Tân Châu.
Quế Lâm có cùng biên giới giáp với
Giao Chỉ có các trại giao dịch, như Tịnh Tây, Đại Tân, Bình Dương, Thượng Tứ,
Thành Cảnh và Thẩm Châu.
Về thủy lộ tựa lưng vào Ly Giang
di chuyển thuận tiện, núi cũng là nơi lưu trữ lương thực.
Lập trại giao dịch chủ lực tại
thành Nam Ninh, do Thiếu Quân phụ trách, lực lượng ba trại phụ tựa lưng vào Hoa
Giang sơn, Thái Sơn, Trung Tú sơn, Phong Tháp sơn có cửu trại Hùng Vương.
Ngoài ra tại Quế Liên sơn, Tam Lý
sơn, Điển Quảng sơn, Kỳ Phong sơn, Xuyên Sơn cũng có chín trại Phù Đổng Tiên Vương,
từ thập đến thập bát, tổng cộng mười tám trại.
Khê Nam sơn có năm trại tên là An
Tiêm, Thất Tinh sơn có ba trại tên Phù Đổng Tiên Vương, Sách Tỷ Sơn có hai trại
tên Thủy Tinh, Hiệp Linh sơn và Tháp Sơn có mười trại giao dịch tên Sơn Tinh.
Luận bàn đến đây thì thấy Chu Ngọc
Thủy, kéo lê, kéo lết một gã trung niên vào sảnh đường nói :
― Bổn cô vào kho chứa ngũ cốc, thấy
một trung niên mặt lạ đang say mèm như chết, nhìn rõ mới biết đại đệ tử của Lý
Thái Bạch, bên cạnh hắn còn phân nửa hũ chìm, trên vai mang túi vải chứa đầy
ngân kim.
Những anh hùng trong sảnh đường
nghe qua ngạc nhiên đồng cười ha hà.... Đúng là đệ tử Lý Thái Bạch say ngây ngất,
trên tay vẫn ôm bình rượu Trúc Việt Thanh, miệng nói phì phào đôi lúc cười ha
hà… nói :
― Tại hạ sống thiên thu chỉ một
lòng yêu rượu Trúc Việt Thanh, suốt đời không phai lạt tình tri kỷ, tay phải ôm
mỹ nhân Tây Thi, tay trái mỹ nhân Đao Thuyền dâng rượu.
Vũ Thư Minh bật ra tiếng cười ha
hà… rồi đính chính :
― Đại huynh phải gọi là mỹ nhân
Điêu Thuyền mới đứng tên chứ.
Đệ tử Lý Thái Bạch cải lại :
― Tại hạ đã đổi tên mỹ nhân, khai
lại lý lịch mới, tất cả phải gọi nàng là Đao Thuyền, kể từ nay tri kỷ rượu ngon
phải gọi mỹ nhân là Đao Thuyền, ai dám cải lại xem như kẻ ấy chưa bao giờ say
rượu, nhớ đừng để bọn Cộng-đảng nghe được thì chúng không tha tại hạ, tội nhẹ
đày đi kinh thế mới Đồng Soài, tội nặng mời học tập cải tạo Thanh Hóa không
ngày về đấy quí các hạ !
Anh hùng trong sảnh đường đồng cười
ha hà.... Vũ Thư Minh gọi nhỏ quản gia :
― Nhờ hiền huynh, đưa đại huynh
này vào nhà khách vãng lai, sáng mai tiếp đãi trọng hậu.
Người quản gia gật đầu, lưng khum
cõng ông khách nặng trên sáu mươi cân, bước chân lững thững đi về hướng hậu sảnh
đường.
Vũ Thư Minh nói với theo :
― Hiền huynh nhớ sáng mai đưa người
khác này đến sảnh đường nhá.
Mọi người trong sảnh đường cùng
dùng cháo nấm rơm rất thơm sau đó dùng chè đậu xanh và uống trà mãi đến khuya, mọi
người chia tay về lán trại, hẹn sáng ngày mai gặp lại hội ý tiếp.
Tảng sáng tại sảnh đường đã đông
đủ người, sau khi tra hỏi mới biết tên ăn trộm đêm qua lạc vào kho ngũ cồc vì
say mèm tưởng đã về đến nhà.
Y khai rằng :
― Mỗ là kẻ ăn trộm của những quan
lại tham ô để nuôi những người khèo khó, nay mỗ đã bị bắt xin cứ nạp cho quan,
riêng số ngân kim này mỗ tặng Lạc dân thôn Vĩnh Phú huyện Ninh Hòa, hy vọng họ
có được một bữa cháo trắng.
Vũ Thư Minh ôn tồn nói :
― Tại hạ họ Vũ tên Thư Minh, bắt
nhầm đại huynh mong niệm tình, đại huynh tự do ra đi và hành động theo ý mình,
nếu cần đến tại hạ xin góp một tay cùng với đại huynh, may duyên sẽ có ngày tái
ngộ.
Người trung niên bất cần đời mỉm
cười ha hà… nói :
― Đa tạ các hạ, chào.
Người trung niên ra đi không để lại
họ tên, cả sảnh đường cũng không để ý vì biết người này có mục đích tốt nhưng
hành động cô độc. Tiếp tục bàn thảo việc lập trại của đêm hôm qua.
Vũ Thư Minh nói :
― Những kho lưu trữ lương thực
phòng cơ tại Hoàng Bố sơn, Cổ Trấn sơn, Hưng Bình sơn, Đồng Sơn. Những kho vũ
khí bí mật tại Tuyết Thái sơn, Bằng Nhật sơn, Bạch Sa sơn và Trổ Ngọt sơn.
Những lò đúc vũ khí tại Tam Lý
sơn, Kỳ Phong sơn, Xuyên Sơn, Thất Tinh sơn, Sách Tỷ Sơn và Hiệp Linh sơn. Riêng
về xuất binh di chuyển linh động, tiếp ứng Bắc-Đông cùng lúc không bị những cản
trở nào, những điểm trọng yếu thì có đội phòng cơ trấn biên.
Lực lượng Cần Lĩnh Nam Giang
Trung mới thành lập, đã được vững nhờ có Thiếu Quân và những anh hùng Tượng Quận.
Tiếp theo thu dụng được một số lớn giáo, bang, đảng phái gia nhập, lúc đầu là một
tập thể ô hợp, nay đã ổn định và vững mạnh không khác nào một binh đoàn tinh
nhuệ.
Về dưỡng binh, luyện tập, tái vũ
trang cho Cần Lĩnh Nam Giang Trung đã hoàn chỉnh, đóng trại giao dịch tại những
sào huyệt cũ, nếu nói về sức mạnh chiến đấu Thiếu Quân là lực lượng chính, Cần
Lĩnh Nam lực lượng thứ nhì, thứ ba quân chiến trợ lực, thứ tư quân giao dịch cơ
động, cả bốn hổ trợ cho nhau.
Hoàng Phi Bằng có ý hài lòng nói
:
― Thưa Vũ thúc thúc, thúc mẫu,
cùng quí huynh, tỷ, đệ. Phi Bằng hình dung được mô hình tổ chức nội bộ, đúng là
nơi hội tụ những nhà binh pháp, khi nào Phi Bằng có thời gian sẽ đi thăm một chuyến,
nhằm chiêm ngưỡng bày binh bố trận của Vũ thúc thúc và quí huynh, tỷ. Nhân dịp
Phi Bằng nhi đến thăm mời Vũ thúc thúc, quí cô mẫu, cùng toàn thể huynh, tỷ, đệ
chuẩn bị ngày mai luyện tập võ học.
Sáng sớm tất cả đã có mặt tại trung
tâm võ trường, Hoàng Phi Bằng dẫn giải từng chiêu thức một, phương thức luyện tập
dễ hiểu theo thức số võ học, còn về khả năng tiếp nhận thì tùy cơ chất của cá
nhân. Những ngày còn lại Hoàng Phi Bằng mời Lê Chí Nam, Nguyễn Chung Kiệt,
Hoàng Thanh Thủy cùng luyện tập.
Mười ngày luyện tập ai cũng tận lực
kết quả tuy có khác nhau, nhưng cái chung trong mười ngày luyện tập dưới sự hướng
dẫn của Hoàng Phi Bằng võ nghiệp tiến bộ không biết đâu mà lượng, có thể nói
nay họ là những cao thủ giang hồ không hổ thẹn.
Nói về bộ pháp ai cũng có thể phi
thân lên núi một cách tuyệt kỷ, đốc mạch cũng đã thông lưu, nội ngoại công có
khả năng hóa giải độc chất, xuất chiêu nhu cương tùy biến hóa, còn có khả năng
phóng tâm ra ngoại thể, điểm huyệt cũng đến mức thần tốc và chuẩn xác.
Theo nhận xét của Hoàng Phi Bằng,
người đạt đến đỉnh cao nhất chỉ có mấy người như Vũ thúc thúc, ngũ cô mẫu, Lê
Chí Nam, Hoàng Anh Tuấn, Hoàng Thanh Thủy, còn Nguyễn Chung Kiệt chỉ được trung
bình, sở dĩ có tiến bộ là nhờ điểm những thức mới trong kiếm pháp họ Hoàng, người
ngoài làm sao biết ưu việt đó, về quyền cũng được bổ thúc.
Một con hạc nhỏ đưa tin, Hoàng
Phi Bằng mở giảng biên ra xem, tức tốc ra lệnh bốn con đại hạc bay xuống đất.
Chàng vội vã chào tạm biệt toàn thể Cần Lĩnh Nam Giang Trung và Thiếu Quân hẹn
ngày tái ngộ, liền bảo :
― Tam Chu đệ phi thân lên đại hạc.
Ba anh em họ Chu tức tốc phi thân
ngồi trên lưng hạc. Hoàng Phi Bằng nói với theo :
― Tam Chu đệ nhớ cứ bay theo con
hạc nhỏ thì thành việc, nó đưa đến chỗ Lý huynh, Trần tỳ, Trịnh đệ và Quách muội,
nhớ ngày nghĩ đêm đi. Từ nay tam Chu đệ dưới sự điều động của Lý huynh và Trịnh
đệ, đem hết tài trí trợ lực cho nhị huynh nhá, chúc mã đáo thành công.
Chu Thông, Chu Thiện, Chu Hào vẫy
tay chào, đại hạc bay về hướng Bắc. Hoàng Phi Bằng muốn biết sinh hoạt nội bộ của
Thiếu Quân, chàng hỏi Lê Chí Nam :
― Lê huynh, tình hình từ ngày
thành lập đến nay có gì không giải quyết được, có thể cho tại hạ biết được
không ?
Lê Chí Nam nghĩ thầm:– Từ khi
thành lập tổ chức Thiếu Quân mãi đến nay mới hội ngộ lần thứ hai, lần đầu gặp
không được lâu để tỏ bày ý nguyện, còn lần này thì chuyên luyện võ học cũng không
có thời gian tâm sự, nói về võ học của mình có ngày nay cũng nhờ quí đệ của
Hoàng Phi Bằng truyền dạy, những vị ấy đối với mình như tình sư phụ, không biết
phải gọi Hoàng Phi Bằng danh xưng nào, thôi thì liều gọi bằng sư phụ cũng phải
thôi.
Lê Chí Nam quỳ xuống một bái thưa
:
― Thưa sư phụ, cho phép phải đạo
đệ tử kính danh sư phụ mong người tiếp nhận.
Hoàng Phi Bằng từ chối :
― Lê huynh, chúng ta là huynh đệ
không tốt sao. Sư phụ xem ra cách biệt lắm, lấy canh sinh làm huynh đệ nhé. Lê
huynh chú ý để lòng với sư phụ gần nhất, đứng để ý người xa.
Câu nói này của Hoàng Phi Bằng
làm cho Lê Chí Nam tỉnh ngộ, thì ra ám chỉ sư phụ chính là Vũ Thư Minh.
Lê Chí Nam vội quỳ xuống hai tay
bái họ Vũ :
― Đệ tử đã để lòng ngưỡng mộ sư
phụ từ lâu nhưng không dám bái sư, nay nhờ Hoàng đệ chỉ giáo mới tỉnh ngộ, mong
sư phụ đừng chê đệ tử.
Vũ Thư Minh thực lòng nói :
― Lê đệ làm đệ tử ai cũng được, đừng
câu nệ về phân quyền trong Cần Lĩnh Nam Giang Trung, như mỗ đây là thúc thúc và
quí cô mẫu vẫn phải nhờ đến Phi Bằng nhi chỉ điểm, theo mỗ biết Phi Bằng đã có
đến thập bác đệ tử tuổi bằng mỗ, võ học của quí huynh đệ ấy đã đến tuyệt kỹ
cũng do Phi Bằng chỉ điểm, ngoài ra Phi Bằng còn có ngũ nghĩa đệ cũng do Phi Bằng
đào tạo, chính Lê đệ cũng được chỉ điểm võ nghiệp, mỗ hiểu Phi Bằng sống không
phải vì duy danh, mà ở điểm chính là phụng sự Bách Việt, sống như vậy mới đáng
sống, Lê đệ chú ý tinh thần Bách Việt chủ đạo văn hiến Hùng Vương, sống biết
hòa mình xem Thiếu Quân là huynh đệ một nhà, có như vậy thì tại hạ tiếp nhận đệ
tử và hai tiếng sư phụ mới có ý nghĩa.
Lê Chí Nam vâng lời quỳ xuống bái
lạy tuyên thệ :
― Đệ tử họ Lê tên Chí Nam xin thệ,
kể từ đây trên đời chỉ có Vũ sư phụ, đệ tử gìn ngữ ý chí không thay đổi lòng
hai và giữ đạo lễ nghĩa đối với người không mai một, nhân đây xin kết nghĩa
tình Lê-Hoàng huynh đệ một bái.
Vũ Thư Minh đặc nhiều kỳ vọng nơi
Lê Chí Nam vì văn võ tinh thông nói :
― Như vậy cũng phải lòng rồi Lê đệ
tử đứng lên, võ học biến hóa nhờ một phần trí tuệ và lấy ý chí để quyết định
cho võ nghiệp, ngày sau mới có dịp thi thố với đời.
Lê Chí Nam lấy quyết định theo Vũ
sư phụ dâng hiến đời mình cho Bách Việt. Hoàng Phi Bằng luyện tập thêm cho Vũ
Thư Minh, ngũ cô mẫu về quyền, huyệt đạo, bày đồ trận và mở một số huyệt đạo để
nội lực được mở toàn diện. Luyện tập một ngày đem lại kết quả ngoài cảm nghĩ.
Hoàng Phi Bằng còn cho biết đối với
Cần Lĩnh Nam Giang Bắc chưa luyện qua những chiêu thức võ học này.
Vũ Thư Minh cảm động, cũng biết
võ học không phải tự nhiên mà có, phải nói là gặp nhân mới đúng hơn. Hoàng Phi
Bằng tạm biệt Vũ Thư Minh cùng quí cô mẫu họ Chu.
Hoàng Hạc trên đường về hoàng
cung, có lúc lạc quan, cũng đôi khi bi quan, tuy vậy mỗi khi đến Phiên Ngung thành
trong lòng lại phấn chấn, cũng có đôi khi băn khoăn, bởi lúc nào lòng cũng hướng
về thế sự Nam Việt.
Chiều nay ông và Nam Việt Vũ Đế
dùng đại hạc bay ra ngoài thành Phiên Ngung để ngắm cảnh, đôi khi suy nghĩ nhiều
về triều đình hiện tại, như trong quan trường lắm phe phái, không đoàn kết như
trước. Mục đích Hoàng Hạc đến Phiên Ngung lần này là để thuyết phục lập lại
cương giới Nam Việt.
Nam Việt Vũ Đế tuy tán thành phục
hồi cương giới, nhưng văn võ lại không tự quyết, quyền hành hoàng tộc bị chi phối,
bởi họ đam mê tham ô, quyền lực, nhiều đề nghị không thẩm quyền chức năng, mỗi
người không còn lo việc chung vì Nam Việt, thêm vào đó quân quan cậy quyền thế.
Nam Việt Vũ Đế tỏ bày cùng Hoàng
Hạc :
― Hôm nay Quả nhân kiểm duyệt lại
những quan thần tốt xấu, đều có ít nhiều gian tế và làm phản, việc này do Muội
Tử Hồ mật tấu, khanh cần phải thấy tình hình hiện tại trước khi xuất quân lập lại
biến giới, có cần xem lại thái độ của quan trường, như văn thì có Quốc công
Nguyễn Bồ Trọng, Thừa tướng Triệu Đa Bảo, Quốc hầu Tô Công Chính, Cửu viện Thượng
thư Triệu Không Cương, Tư Đồ Triệu Đạt Hùng, Thái Úy Triệu Mẫu Phương, Thái phó
Phùng Hảo Anh và Quan Thị Ngự Sử Bạch Đình Hồng.
Võ thì có Tể tướng Vi Quốc Đại,
tướng quân Triệu Phương Đa, tá trung lang tướng quân Trần Hoàng Thư, chinh tây
tướng quân Lê Thông, tướng quân hộ thành Trang Thông, Cơ Mật Viện tướng quân La
Cát Tưởng và hộ vệ quân Trần Thanh Danh.
Trong danh sách văn võ này có người
gian tế làm phản và cũng có người hết lòng trung vì quốc.
Còn lại một ít quan văn võ có thừa
chí khí anh hùng, không thuộc thế lực nào như Học sĩ Lê Nguyễn Mộng, Quản đại
phu Triệu Vũ Thành, Trung quân tùng sự Đinh Công Khá, Gián nghị đại phu Phùng Tứ
Tâm, Tây lương thứ sử Trương Hoán Cách, Phiêu kỵ tướng quân Triệu Bá Đạt, mai
này trẫm quyết định trọng dụng họ đúng chỗ. Riêng những quan văn võ tứ trụ triều
đình, các vương địa phương sẽ đồng loạt cho về vườn, theo tội năng nhẹ, triều
đình mở khoa cầu hiền sĩ bổ khuyết vào triều chính.
Quả nhân nghĩ đến đường cùng khi nước
nhà nghiêng ngửa mới biết chân thực lòng quân thần, như bao đời đã thấy trên dưới
không cùng một ý chí nếu thế thì Nam Việt cũng khó mà tồn tại, toàn tôn tộc
Bách Việt sẽ suy vong, Lĩnh Nam mất trên bản đồ, văn hiến Hùng Vương khó mà lưu
truyền cho con cháu mai sau. Quả nhân sống gần quan trường mới biết thường tình
phần đông là phường ca tụng bốc thơm không đúng lòng thực, bản chất của quan
trường hiện nay hơn nủa lòng đã không minh chính. Họ đã thụ đông, đổi thay cách
sống vì riêng tư duy danh, duy quyền, duy tình, duy lợi, không mấy ai duy Tổ quốc
! Chính Tôn Nhân Phủ mấy mươi người đã nhu nhược, đầu óc không có suy nghĩ lợi
ích cho Bách Việt, họ là kẻ lắm chuyện để hưởng thụ. Quả nhân chỉ còn trông cậy
vào Muội Tử Hồ vừa thông minh văn võ song toàn có bản lãnh, biết tự lấy quyết định
thay mặt triều chính. Bỗng Nam Việt Vũ Đế nhớ điều gì lại hỏi Hoàng Hạc :
― Khanh thấy Quả nhân có hèn lắm
không ?
Hoàng Hạc liền quì xuống
tâu :
― Muôn tâu Bệ hạ, làm người đã là
khó rồi, nhất là làm Hoàng đế thì lại càng khó hơn, người tài thường giải quyết
được việc khó khăn, khi khó khăn đạt được kết quả thì tâm hồn thoải mái, một
Hoàng đế trị vì xã tắc bình thiên hạ, đương nhiên gặp phải muôn vàn việc khó kể
sao cho xiết. Bệ hạ đã từng soi gương điểm lòng có đủ can trường, đảm lược rồi
mới lấy quyết định quốc sự an dân, hạ thần không thể gọi Bệ hạ là hèn được.
Muôn tâu Bệ hạ, như đã thấy nội
ngoại chính triều đình, được sống mấy mươi năm thanh bình. Nay họ ăn không ngồi
rồi mới sinh ra biếng nhác, cầu an, hưởng thụ, vị kỷ, họ còn tệ hơn nữa cấu kết
với gian tế làm phản để mưu cầu sống cá nhân, bởi thế biên giới mới bị mất, đất
nước không khá được bởi hai chữ ích kỷ mà ra !
Bệ hạ nên ra tay trước thì trụ cột
Nam Việt mới đứng vững, binh pháp có nói: "Ra tay trước người thì thu được
tinh thần của người". Đó cũng là đạo lý để xuất quân trước, lấy lại được
biên giới và củng cố triều cương.
Nam Việt Vũ Đế nghe đôi lời khích
lệ của Hoàng Hạc, gật đầu rồi liền nói :
― Hiền khanh nói đúng ý của quả
nhân, tuy hôm nay trẫm đã có suy tư nhiều về việc này trước khi khanh tấu, trẫm
lại nhớ ngày trước, khi ấy Quả nhân vào tuổi bách thọ cùng với hiền khanh tỷ
võ, Quả nhân có nói mai sau khanh là hào kiệt, ngày ấy hiền khanh cũng nguyện một
lòng vì Nam Việt, từ ấy Quả nhân nhớ khanh nhiều nhất nhưng lại ở mãi Giang Tô.
Đến nay khanh đã về sống Cửu Chân
xem như ở gần quả nhân rồi, mỗi lời tấu của tri kỷ nghe qua rất giá trị nên tất
cả để vào lòng. Quả nhân cũng biết trị chính quá lâu, đôi khi cũng không hoàn
thiện, đó là nhược điểm của con người. Ngày nay quả nhân thấy thẹn lòng không
làm được việc cho đất nước Nam Việt phồn thịnh như ý, chỉ có khanh là tri kỷ
chưa bao giờ Quả nhân xem khanh là tôi đối với vua, mà phải nói rằng tình huynh
đệ, đôi lúc Quả nhân ghen tị tài năng với khanh nhiều lắm, cho nên nay Quả nhân
quyết định làm một việc gì đó để đổi mới bộ mặt xấu xa của triều cương. Quả
nhân quyết định khai tử những quan trường ô lại, quan nha hèn nhát, ít nhất
cũng để lại trong lòng khanh hai chữ Vũ Đế dám làm những việc phi thường, hành
động lần này nhằm tạo ra triều đình có kỷ cương mới. Thực ra làm Hoàng đế tốt
không dựa vào sức mạnh trị quốc vô tình tạo thêm áp lực càn mạnh chống lại càn
nhiều. Từ lâu nay Trẫm dựa thiên hạ làm nhà, dựa bá tánh làm thân, dựa công hầu
làm bạn.
Quả nhân quyết định tảo triều, hạ
chỉ lập lại biên giới, đích thân quả nhân xuất chinh trừ phạt Hán. Còn về hoàng
tộc văn võ không đồng tình xuất chinh thì ở lại triều đình, chỉ cần độc nhất ý
chí thân chinh, sống thác do mệnh trời quyết định, không can dự gì đến quan lại
nhu nhược, ai phản đối chỉ dụ của Quả nhân sẽ luận tội sau ngày khải hoàn.
Hoàng Hạc toát mồ hôi, sau khi
nghe Vũ Đế có quyết định rõ rành liền tâu :
― Muôn tâu Bệ hạ, trí lự và dũng
khái của một Quân Vương thôi thúc lòng Lạc dân xuất anh hùng trợ lực, chính vì thế
mà thần dân ngưỡng mộ Vũ Đế và tự tin đấng chúa minh quân của toàn Lạc dân, đó
là điểm huyết tụ, còn đi ngược lại thì nó sẽ tan. Hoàng Hạc thấy hôm nay cần phải
nói về kho tàng tâu tiếp:– Muôn tâu Bệ hạ, sau khi Hoàng thượng lập lại biên giới
khải hoàn về triều. Bệ hạ ban thưởng tướng sĩ những gì ? Hay là ban thưởng chiến
mã giống tốt và ruộng đất, nếu tướng sĩ tử vong hay bị thương được cấp dưỡng,
ban ruộng đất làm ăn, con cái của họ được học văn võ v.v...
Nam Việt Vũ Đế lòng se lại một
lúc bồi hồi, chưa biết phải trả lời thế nào ! Vì đây là sự hiển nhiên của hậu
chiến nói :
― Quả nhân lấy tài sản ở đâu ra
mà hứa với tướng sĩ ba quân trước khi ra trận ! Cũng không thể nào cho Lạc dân
ăn một thứ bánh vẻ hay ảo tưởng được ! Rất tiếc quốc lực không được như
ý, còn khanh thì suy nghĩ thế nào ?
Hoàng Hạc không ngại ngùng tâu :
― Muôn tâu Bệ hạ. Chiến mã, lúa
giống, gia súc hạ thần xin cung cấp để ủy lạo tướng sĩ sau khi khải hoàn, còn về
tài sản của những quan trường tham ô, gian tế, làm phản và chiến lợi phẩm tịch
thu được, Hoàng thượng uỷ lạo gia đình binh sĩ bị thương vong, cung cấp phương
tiện tang canh, điền thổ phân phát cho Lạc dân, thu phục được nhân tâm thì dân
giàu nước sẽ mạnh.
Nam Việt Vũ Đế trên đôi mắt châm
chiêu, hướng về Nam, lòng lo âu, biết sức mình có hạng nói :
― Những đề nghị của khanh rất hợp
ý với Quả nhân, nhưng e rằng hứa với Lạc dân mà không thực hiện được thì trở
thành kẻ dối trá. Nam Việt Vũ Đế hỏi tiếp:–Khanh có tài sản như thế nào mà hứa
cung cấp chiến mã và ngũ cốc, rút lại lời hứa đi, cũng như vừa rồi khanh đã làm
một việc lớn, Quả nhân đây cũng đã thẹn rồi, đó là khanh đưa tất cả anh hùng từ
phương Bắc chiêu tụ về Cửu Chân và Nhật Nam, tài sản của khanh bảo bọc họ được an
cư lạc nghiệp sống sung túc. Quả nhân là Hoàng đế mà không an bang được vì Lạc
dân !!! Quả là bất tài, nhân đây Quả nhân nói cho hết lời, từ khi cùng
khanh đồng tâm vì Nam Việt chưa hề nghe khanh tâu một lời nào để xin phẩm triều
đình và chưa giới thiệu ai trong gia tộc ra làm quan, Quả nhân biết họ Hoàng
văn võ một góc trời, như Hoàng Phi Bình, Hoàng Phi Biên, Hoàng Phi Vũ, Hoàng Lữ
Giao, Hoàng Lữ Trinh, Hoàng Phi Chỉnh và cả Hoàng Phi Bằng diệt nhi cũng có khả
năng làm tướng quốc, chỉ có một Hoàng Phi Khải tiếp nhận phẩm học sĩ mà không
làm việc ở triều đình, thế mà khanh vẫn lãnh đạm với trẫm là có ý gì ? Trẫm tra
hỏi lắm thì khanh mới nói: "– Cả nhà họ Hoàng bận không ra làm quan được".
Thử hỏi ngàn bận, vạn bận chỉ có đuôi ngựa là không bận hay sao ?
Hoàng Hạc biết Vũ Đế trách là
không trực tiếp làm quan tâu :
― Muôn tâu Bệ hạ, hạ thần đa tạ điện
hạ, nhớ đến con cháu của hạ thần đó là vinh dự lắm rồi, nhà họ Hoàng có lời hứa
phụng sự Nam Việt chứ không vì quan trường, người đời có nói "Đức trường tồn,
danh tuyệt mệnh".
Vũ Đế cùng Hoàng Hạc trở về
thành, quả nhiên sáng hôm sau Nam Việt Vũ Đế tảo triều hạ chỉ :
― "Nay trẫm quyết định lấy lại
biên giới, đích thân Trẫm xuất chinh. Tất cả quan văn võ lưỡng triều và hoàng tộc
những ai đã không đồng tình thì ở lại triều đình. Trẫm sống thác do mệnh trời
quyết định, không can dự gì đến quí khanh, ai phản đối Trẫm trảm đoạn". Tất
cả quan văn võ ai cũng hoảng hốt, chỉ dụ đã truyền trên dưới hoàng thân quốc
thích, từ trước đến nay thường cản trở ý vua, nay hạ chỉ dụ có tiếng trảm ai
cũng sợ đầu tạm biệt khỏi cổ.
Cùng ngày Nam Việt Vũ Đế công bố
:
― Trẫm đã thận trọng trị chính đến
một mực đó cao nhất thì phải lấy quyết địch cho chính trẫm, hôm nay trong quan
trường ai phản đối trẫm người đó đích thực là con dân của nhà Hán, đã từ lâu trẫm
chờ đợi cơ hội lấy lại biên giới, ý chí đó đã đốt cháy lòng và thôi thúc quyết
định của trẫm xuất binh lần này.
Vũ Đế đứng lên với một cử chỉ
khác thường hạ chỉ :
― Lấy thân rồng trẫm xuất chinh,
chính tay dựng cờ Đại Nguyên Soái, những tướng quân khác như Hoàng Hạc nguyên
là Quốc sư, Tây tướng quân có Phùng Nam, Đông tướng quân có Trần Bình Phương, Phiêu
kỵ tướng quân có Âu Dương Lạc, Quản đại phu Triệu Vũ Thành làm tướng quân Ngự
Lâm Quân, Tiền quân có tướng quân Đinh Công Khá, giám nghị đại phu Phùng Tứ Lâm
làm Tây phụ quân, chưởng quản kho lương do thứ sử Trương Hoán Cách, phiêu kỵ tướng
quân Triệu Bá Đạt hậu quân, Thái Tử Hồ điều khiển triều chính và giám sát cả nước
Nam Việt, công việc binh cơ nội ngoại trị.
Ngày hôm sau Nam Việt Vũ Đế xuất
chỉ lệnh khẩn cho những tướng quân Ngự Lâm Quân Lê Đại Nguyên, tướng quân Hộ
Thành Trang Thông, Cơ Mật Viện tướng quân La Cát Tường, Truyền lệnh sứ Nguyễn
Lao Trường. Đến từng nhà quan quân văn võ gian tế, làm phản đọc chỉ truất phế,
bắt về nhà lao nội thành chờ lập lại biên giới đem ra xét sử, tịch biên tài sản
sung vào công quỷ biên giới, những ai trong hoàng tộc đương triều cũng bị truất
phế và tịch thu tài sản, tội nặng bắt về nhà lao, tội nhẹ mời ra khỏi thành
Phiên Ngung.
Ngoài ra Nam Việt Vũ Đế còn triệu
tập phân quyền triều chính Nam Việt gồm có Giao Chỉ Vương Âu Việt An Dương Lạc,
Tượng Quận Vương Điền Việt Phùng Nam, Trường Sa Vương Mân Việt Chu Thông Được,
Hải Nam Vương Dương Việt Đinh Bá Khôi, Nam Hải Vương Tây Việt Mân Việt Trần
Bình Phương, Cửu Chân Vương Lạc Việt Nguyễn Ngọc Trang, Quế Lâm Vương Lạc Việt
Hoàng Trung Nhất, Nhật Nam Vương Việt-Mường Lê Trung Văn, các đng chủ Lạc Hồng,
Lạc Khương, Lạc Trưng, Lạc Thạch, Mân Lạc, Lạc Đức và đại diện Bách Việt hải
ngoại Trần Hoa Nam chánh sứ, Tô Trung Sứ, Mạc Tài Sơ và Trịnh Khả Minh phó sứ.
Thành Phiên Ngung trở thành một
khối ý chí bảo vệ biên giới đất tổ, xuất chỉ hiệu triệu "Đánh Bắc, Bình
Nam, Hưng Việt". Nam Việt Vũ Đế xuất binh chia làm hai mặt trận Tây có Tướng
quân Phùng Nam, Đông có tướng quân Trần Bình Phương, Phiêu kỵ tướng quân Âu
Dương Lạc hậu quân Tây và Đông.
Tiếp theo Nam Việt Vũ Đế hạ chỉ dụ,
xuất quân "Tịnh bất động" khi đến biên giới không được động đến tài sản
Lạc dân, tại mặt trận Tây và Đông đặt dưới quyền Nam Việt Vũ Đế và Quân sư
Hoàng Hạc.
Nam Việt Vũ Đế thảo Quốc thư gửi
nhà Hán :
Quốc Thư
Lão phu Triệu Đà đế hiệu Nam Việt
Vũ Đế
( Tứ thập lục niên )
Muôn tâu điện hạ ( Hán Vũ Đế )
toàn tôn tộc Bách Việt lập quốc từ lâu xưng hiệu Nam Việt, vốn tiểu quốc thanh
bình, giao hảo cùng quí quốc một mực thuận hòa, nhưng không hiểu lẽ cớ gì. Quí
quốc trở mặt ngày một, ngày hai đã xâm phạm biên giới Nam Việt của tiểu quốc,
chiếm đoạt một phần đất tại biên giới phía Bắc.
Toàn tôn tộc Bách Việt của tiểu
quốc Nam Việt lấy lẽ sống lợi ích chung cùng lân bang, không chấp nhận cử chỉ
khiêu khích làm mất hòa khí thanh bình của lưỡng quốc.
Lão phu tâu lên điện hạ biết rằng
tình hình tại biên giới của Việt–Hán đã bị quân sĩ Hán chiếm cứ cho nên đời sống
sinh cư ở nơi này trở nên rất khốn khổ, ngôn ngữ lại bất đồng, tính chủng tộc Bách
Việt và văn hiến vua Hùng cũng khác và riêng biệt với Hán, nay quân sĩ Hán chiếm
cứ thì lòng Lạc dân và Hán dân sinh ra bất hòa có phải đây là mầm chiến trang của
lưỡng quốc hay sao ?
Điện hạ tưởng xem con hạc không
thể sống chung với con cò. Người nào giống ấy, biên giới Lĩnh Nam trời đã định
rành.
Muôn tâu điện hạ tiếp nhận quốc
thư này, xem đây là một yêu cầu xin hoàn trả lại những phần đất của tôn tộc
Bách Việt đã có từ xưa, như vậy Nam Việt và đại Hán mới được thanh bình, hai
dân tộc tại biên giới được yên ấm muôn đời.
Muôn tâu điện hạ. Lão phu kính cầu
điện hạ xuất chỉ dụ, thu binh hạ mã ra khải biên giới Nam Việt để lưỡng quốc được
thanh bình đời đời.
Lão phu thay mặt toàn Lạc dân Nam
Việt chúc điện hạ liên miên vĩnh phúc.
Kính tấu.
Lão phu Triệu Đà Nam Việt ".
Ấn ký Nam Việt Vũ Đế Hành Tỉ
Truyền lệnh sứ Hoàng Phi Biên đi
Trung nguyên yết kiến Hán Cao Hậu. Lúc này nhà Hán muốn chiếm mặt Bắc và Tây
Nam Việt, họ chuẩn bị dùng người Việt sống tại biên giới làm mộc bản cho chiến
tranh, mặt Đông biên giới nhà Hán không chịu trả lại còn gửi binh đến chiếm
thêm đất.
Học sĩ Hoàng Phi Khải gửi giảng
biên chim số về triều đình, nội dung về trận chiến biên giới Việt–Hán. Nam Việt
Vũ Đế mở ra xem và công bố trước triều đình :
― Triều thần văn–võ lưỡng triều hãy
nghe chỉ dụ, nay trẫm chuẩn bị cuộc chiến biên giới, nếu ai trái lệnh thì tự gửi
xác tại mặt trận vì triều đình không tiếp nhận những quân quan vô dụng. Tiếp
theo Nam Việt Vũ Đế công bố nội dung giảng biên :
"– Muôn tâu Hoàng thượng điện
hạ. Khí số trận chiến quân binh mã tướng Nam Việt và nhà Hán.
Nhà Hán đương ở cung thất sát tại
mệnh, đáng lẽ là kẻ thượng phong chiến thắng, nhưng mà bị địa sát địa hung, sát
tinh chiếu rọi cho nên trận chiến bên nhà Hán gặp tai hung hiểm. Binh mã tướng
soái Nam Việt cung chấn thì tự dưng độc tọa, hộ chiếu phá quân, nếu xét theo cuộc
chiến, đương nhiên khí thế lâm trận của quân Hán mạnh hơn quân Nam Việt rất nhiều.
Theo như sự suy đoán của hạ thần thì thời vận của binh mã Nam Việt hơi tốt một
ít, hơn nữa vì trận chiến này theo quẻ cho biết hùng chấn sẽ ruổi nhiều và may
ít, còn theo Huỳnh Dương thuộc kim kỵ nhất là nơi có nhiều nước ở phương Bắc
Hán, còn phương Nam Việt thuộc lửa. Lần đại chiến này giữ được phương chánh Nam
thì lấy lửa nấu nước, giữ được uy lực Thất Sát không tăng thêm, thì Nam Việt
tiêu giải được sức mạnh của Huỳnh Dương. Tướng sĩ Nam Việt phải thủ phương
chánh Nam mới hoàn toàn thắng trận".
Cả triều thần tung hô vạn tuế, vạn
tuế chúng thần tuân chỉ nhật định khải hoàn ca.
Giám binh Nam Việt báo tin hiện
nay quân binh nhà Hán cho phép Hồng Sản được quyền tự do cướp phá, giết người
Bách Việt sống tại biên giới. Tại biên giới Tượng Quận do Thái thú Trương Thượng
Tể đứng ra điều binh, biên giới Quế Lâm bọn Hồ Sản đảng cũng được thái thú
Dương Tài Lập hổ trợ cướp phá và giết người, biên giới Nam Hải dưới quyền thái
thú Tăng Khánh Bình điều động binh mã chuẩn bị lấn chiếm biên giới. Tiếp theo nhà
Hán gửi tướng Gia Cát Đồng từ Trùng Kháng đến Phúc Kiến chỉ huy trận chiến và
tướng Mã Thành Sơn từ Phúc Kiến đến biên giới Nam Hải chỉ huy trận chiến. Đặc
biệt có quân phản quốc Châu Minh nằm sâu trong đất Hán thuộc Phúc Kiến, phía
sau ngọn Việt Thành Lĩnh chạy từ Phúc Kiến, đến huyện Tuần Mai tỉnh Nam Hải,
chúng làm hậu binh mục đích là lập trị chính sau khi người Hán chiếm được phần
đất của Nam Việt.
Nam Việt Vũ Đế truyền chỉ dụ lập
đại bản bộ soái tướng tại biên giới Nam Hải. Bản bộ thứ hai do Quốc sư Hoàng Hạc
lập tại cửa biển Hổ Môn Nam Hải. Bản bộ thứ ba lập tại biên giới Tây bắc Quế
Lâm do tướng quân Hoàng Trung Nhất điều binh. Bản bộ thứ tư lập tại biên giới Bắc–Đông
thuộc Tượng Quận do tướng quân Phùng Nam điều binh. Bản bộ thứ năm do Cần Lĩnh
Nam lập tại các tuyến Ngũ lĩnh và Châu Giang.
Nam Việt Vũ Đế truyền hiệu triệu
"Đánh Hán, Bình Nam, Hưng Việt". Xuất chinh binh mã như vũ bão, binh
mã hò reo tinh thần mạnh mẽ. Những tướng quân trợ chiến mặt Đông có Trần Bình
Phương lập trại phía Bắc sông Tây Giang, Phiêu kỵ tướng quân An Dương Lạc lập
trại Bắc cửa biển Hổ Môn, ngoài ra lực lượng dân quân Cần Lĩnh Nam còn được Nam
Việt Vũ Đế chỉ định vận chuyển lương thảo và tiếp ứng bốn mặt trận.
Lúc này có đến ba lực lượng Cần
Lĩnh Nam trợ chiến do Phùng Hưng, Vũ Thư Minh, cùng Hoàng Phi Chỉnh thay thế
Hoàng Phi Biên, một lực lượng mạnh của dân quân Nam Việt, đặc biệt Quế Lâm, Tượng
Quận có lực lượng Thiếu Quân do Hoàng Anh Tuấn và Lê Chí Nam chỉ huy, mặt trận
cương giới chia thành năm tiền phong, sáu mặt trợ chiến. Bốn mặt trận cùng xuất
phát, giáp công một ngày.
Tại mặt trận Tây chỉ năm ngày sau
quân Nam Việt đã đẩy lùi được quân Hán, lấy lại được phần đất biên giới. Qua
ngày thứ sáu, tiền quân tướng soái Phùng Nam tiến sâu vào đất Hán bị sức ép của
binh Hán cản lại, do thái thú Gia Cát Đồng điều binh án ngữ, ba tướng của Gia
Cát Đồng tiến ra tiền trận Xuyên Điền Tô tay cầm đạo, Nga Hồ tay cầm song kiếm,
Đinh Phương tay cầm mã tấu. Xuyên Điền Tô xuất đao như mãnh hổ đói khao khác thịt
người, tiếng đao rít lên "vù vù…" binh sĩ Hán háo hức hò reo một góc
trời, át cả tiếng đao, tiếng vó ngựa binh mã Hán tung bay mịt mù giáp trận.
Binh mã Cần Lĩnh Nam Giang Bắc do
Phùng Hưng bày ra trận phục binh, chỉ cần giáp trận là tiếng trống, thanh la, nổi
lên thúc quân như vũ bão. Phùng Hưng và Xuyên Điền Tô đao kiếm vào tiền trận
chiến. Đao của Xuyên Điền Tô quay tít rít lên thanh âm "vù vù…" đối với
binh sĩ kém may mắn đứng gần xem như lấy sọ, không gian đao kiếm này chỉ dành
riêng cho anh hùng thử thách. Tiếng đao chói tai nhưng không hù được Phùng
Hưng.
Trong chiến trận Phùng Hưng điềm
tĩnh, tay đưa cao hiệu kỳ nói :
― Kính chào tướng quân Xuyên Điền
Tô tại hạ họ Phùng tên Hưng tướng quân hiệu kỳ Cần Lĩnh Nam.
Xuyên Điền Tô gốc gác là tướng cướp
thất học, kiêu ngạo, có dũng bất mưu, thân phệ khó coi nói :
― Mỗ chưa hề biết tướng man di là
ai, xem ra đời của ngươi chưa chơi hết một canh bạc, mỗ ưa thích nhất là lấy
nhiều thủ cấp, vậy mời thủ cấp lao vào đao của mỗ, thủ cấp hãy thưởng thức một
chiêu "Cang châu quyết đao" của mỗ.
Phùng Hưng thấy tướng Hán lỗ mãng
kiêu ngạo, tự nói với lòng:– Đời ta mang đầy chí lớn, vũ lộng mặt chẳng sợ ai.
Tướng Hán đang ở thế thượng phong, nhưng Phùng Hưng cũng oai phong lẫm liệt
đúng là tướng quân Nam Việt không phải đồ hèn để cho tướng Hán dọa nạt người.
Phùng Hưng xuất chiêu "Châu
thành kỳ kiếm" trong "Tuyệt cao kỳ kiếm" đao kiếm "keng
keng". Xuyên Điền Tô xuất luôn chiêu "Cang châu thuyết đạo".
Phùng Hưng dò dẫm đao pháp của Xuyên Điền Tô, trên hai mươi chiêu chưa phân thắng
bại, đao kiếm tiếp tục la "keng keng", tướng Hán lảo đảo thì biết địch
thủ chỉ có cái miệng to hơn cái ống nhổ, võ nghiệp của Xuyên Điền Tô chưa phải
là cao thủ. Phùng Hương nương tay để khai thác đao pháp tuyệt kỷ của y, cũng để
xem tài năng của y đã đến đâu mà đòi lấy thủ cấp của thiên hạ, đấu tiếp ba mươi
hiệp kiếm đao.
Trong trận Phùng Hưng tay nhẹ
quét kiếm phớt qua cổ, thủ cấp thuận đà bay cao về hướng quân Hán, thân Xuyên
Điền Tô tấn trụ hai chân đứng lún xuống đất vòi huyết tươi đỏ từ cổ phún lên
cao thành tia như pháo bông. Quân binh sĩ Hán la lớn :
― Đúng là thủ cấp của tướng quân
Xuyên Điền Tô.
Phùng Hưng hai chân nhịp thúc
hông tuấn mã chạy thẳng vào trung đạo quân Hán, gặp ngay Gia Cát Đồng. Phùng
Hưng biết đây mới là người mình muốn tìm, chàng xuất luôn chiêu "Luân sa
kiếm " trong "Tuyệt cao kỳ kiếm" liền tay nhanh bắt sống được
Gia Cát Đồng nhưng không được.
Lê Trung Kha song kiếm trợ chiến
cho Phùng Hưng, nhưng gặp phải tướng Hán Nga Hồ, đấu trên ba mươi hiệp không
phân thắng bại. Tướng quân Lê Trung Kha phi thân tiếp trận không ngờ lại bị
thương, tuy mất một cánh tay trái vẫn đấu đến hơi thở cuối cùng, cả hai đồng thương
vong.
Tướng Hán Đinh Phương dũng mãnh
xuất chiêu hung hiểm làm cho Mạc Thu Tá bị trọng thương, tình thế trong trận có
phần bất lợi cho phía Nam Việt.
Tướng quân Phùng Nam xuất trận
đưa hộ tiền quân vào trung tâm, phó tướng tây quân Lê Bình, phó tướng đông quân
Trần Đông và phó tướng hậu quân Đỗ Trương, cùng binh sĩ Cần Lĩnh Nam vào trận đập
cho bằng được quân Hán, quân Hán cầm cự không nổi áp lực của quân Nam Việt, rút
khỏi bỏ chạy lấy thân, mặt trận Tây thu lại được biên giới mà còn lấy thêm đồng
bằng của nhà Hán lại vùng đất biên giới.
Không ngờ vào lúc này lại có một
lộ binh xuất hiện không ai biết tên tuổi, chính là Chu Điệp bọc phá hậu, thế
đánh chẻ tre mãnh liệt vào quân Hán trở tay không kịp đầu hàng hơn nửa và bắt sống
được tám tướng Hán quan trọng nhất là Thái thú Gia Cát Đồng và các tướng Nga Hồ,
Đinh Phương chiến lợi phẩm vô số. Tướng soái Phùng Nam điều tra mới biết đó là
Cần Lĩnh Nam sống ẩn trong rừng dưới trướng của tướng quân Vũ Thư Minh. Mặt trận
Tây biên giới đổi chiến thuật tấn công, quân binh Nam Việt hoàn nhuệ khí lên
cao, quân binh Hán bắt đầu giảm độ tấn công, đội ngũ rã rời thành từ mảnh, quân
tướng Hán hỗn loạn nhờ Chu Điệp đánh hậu, tin loan truyền rất nhanh quân binh
Nam Việt đã chính thức làm chủ mặt trận Tây.
Tướng soái Phùng Nam kiểm tra chiến
trường, quân sĩ Nam Việt thương vong rất ít, có vài tướng bị thương vong như Lê
Trung Kha, Mạc Thu Tá.
Mặt trận Tây cương giới Tượng Quận
thắng lớn. Tin cấp báo về đại bản doanh Soái tướng Nam Việt Vũ Đế. Trận chiến mặt
Tây chỉ sáu ngày là bình định được biên giới, toàn dân vui mừng, chiến lợi phẩm
của quân Hán đem ra ủy lạo cho binh sĩ và Lạc dân, sửa lại nhà cửa, ruộng vườn
và luyện tập Lạc dân tự vệ biên giới. Hai mặt trận phía Đông và Bắc nhận được
tin chiến thắng phấn chấn khôn tả.
Còn về mặt trận phía Bắc. Tướng
quân Trần Bình Phương hạ trại Tây Giang, Phó tướng quân La Hồng và Lại Lạc
Khương, tiền phong có Nghiêm Hà Đức, hậu trận Trịnh Đình Thao.
Bên quân Hán có Thái thú Dương
Tài, cùng các tướng Đinh Phố, Ngụy Ma, Liêu Hóa, Trương Dực, Lục Kháng, Tôn Ba,
Cờ Hồ đảng do Lôi Minh, Tư Mã Cầu chi huy.
Trước khi giao trận quân binh Hán
hùng hổ tuyên bố nhất định thắng trận khải hoàn. Thái thú Dương Tài đứng trước
ba quân hét to sóng lớn, nào là quân Hán nhất phu đấu vạn phu, còn hù sẽ đưa
quân Nam Việt đi vào tuyền lộ.
Tướng quân Trần Bình Phương, xuất
lệnh tấn công vào trận chiến thấy thế địch quá mạnh vội cử Trịnh Đình Thao làm
tiền phong, tay cầm kiếm xông pha công trận, đánh tướng Đinh Phố. Trịnh Đình
Thao xuất chiêu "Thành huyết Lĩnh Nam" sức gió thổi chặm mà lực rất mạnh
"ào ào" trong luồn gió có khí đạo lạ thường, một phần tư khắc Khí hóa
hơi, nửa khắc sau âm hàn khí hậu.
Đinh Phố là một tướng Hán võ học
tinh thông, mới tiếp một chiêu mà đã rợn người, phi thân tránh né. Trịnh Đình
Thao xuất chiêu thứ hai bao phủ một vùng, không để Đinh Phố có cơ hội lần nữa,
kiếm đã đến cổ Đinh Phố đỡ không kịp thủ cấp như có một lực đẩy quăng cao về hướng
trận Nam Việt.
Tướng quân Lại Lạc Khương xuất
trí mưu cơ cho quân nhà Hán một nhục khí, xuất quyền cước đá thủ cấp Đinh Phố
tung bay lên trời, xương thịt như những lá khô lả tả rơi xuống đất giặc Hán,
binh tướng Hán kinh sợ, từ hưng khí biến thành nhục khí.
Tướng quân Nghiêm Hà Đức tay cầm
côn phi thân tiếp ứng cùng phía đông cho Trịnh Đình Thao ứng chiến với Ngụy Ma và
Liêu Hóa hay tay côn xuất chiêu liên hoàn một trăm tám mươi thức quyết lấy
"Hết nạc vạt đến xương", bọn cướp cương giới Ngụy Ma và Liên Hóa bại
trận, kẻ phế mạch huyệt tứ chi, người gãy xương sống làm ba khúc, võ công hoàn
toàn bị phế.
Quân sĩ Nam Việt khí thế bừng bừng
hô lớn:– Quân binh nhà Hán sống không ai thương, chết cũng không ai tiếc đồng tiến
lên, tiến lên ...
Hai phó tướng Lạc Hồng và Lại Lạc
Khương bao vây bọn Cờ Hồ đảng, tiêu diệt hơn nửa, bắt sống được các tướng cướp
như Chu Bá Cương, Lôi Minh, Tư Mã Cầu đành phải chịu trói thúc ké, đem về doanh
trại tướng quân Trần Bình Phương.
Thái thú Dương Tài phất cờ cho ba
tướng Trương Dực tay cầm thương, Lục Kháng tay cầm trượng, Tôn Ba tay cầm đao
tiến ra trận. Hậu trận tướng Nghiêm Hà Đức tay phóng chùy cho quân tiến vào
đánh ba tướng Hán. Tướng La Hồng thấy một đánh ba sợ thua, phi thân vào trận,
cùng lúc xuất chiêu trên hai trăm phi tiêu phóng vào quân Hán tử thương hơn một
trăm, số còn lại sợ bỏ chạy, ba tướng Hán và hai tướng Nam Việt đấu trên hai
trăm hiệp mới phân được thắng bại.
Hai tướng Hán, Ngô Trương Dực,
Tôn Ba bị tử thương, còn bên tướng Nam Việt có Nghiêm Hà Đức tử thương, trận
chiến ác liệt kéo dài mười ngày, tướng quân Trần Bình Phương tiến quân sâu vào
mặt trận trung quân nhằm bắt Thái thú Dương Tài.
Dương Tài biết cự địch không lại
đành phải ra lệnh cho binh mã chạy về hướng Tây–Bắc để cố thủ, không ngờ gặp phải
một hậu đạo quân Nam Việt xuất hiện không ai khác hơn là Trịnh Đình Thao. Dương
Tài núng thế đường cùng tự thầm:– Quân binh Nam Việt ít tướng, ít quân mà biến
trận như quỷ nhập thần. Thảo nào mặt trận Tây thất thủ sớm và có lẽ mặt trận Bắc
của mỗ cũng đồng số phận ư !
Trịnh Đình Thao gọi Thái thú
Dương Tài :
― Nào Thái thú Dương Tài đào tẩu
hay sao. Trước khi giao chiến tướng quân đứng trước ba quân miệng đánh trống
tay múa như lên đồng, hò hét nhà Hán như sóng to gió lớn vì sao mà vội bỏ chạy
thế này ! Nào là quân Hán nhất phu đấu vạn phu, còn hù sẽ đưa quân Nam Việt đi
vào tuyền lộ "ha hà…".
Quân binh Nam Việt và Hán dàn
binh bố trận quyết chiến một mất một còn, đúng Ngọ tam khắc có tin cấp báo Thái
thú Dương Tài tử trận. Còn tướng Nam Việt, Trịnh Đình Thao đang truy sát quân
Hán, quân Hán tan tác rút về bên kia biên giới.
Tướng quân Trần Bình Phương lập tức
thượng kỳ thu hồi biên mã. Tin cấp báo tướng Trịnh Đình Thao bị trọng thương kiệt
sức tử vong.
Tổng kết quân binh Nam Việt mặt
trận Bắc tổn thất một phần nhỏ tướng sĩ, nhưng đó chỉ là một phần ngàn tổn thất
của quân Hán.
Về chiến lợi phẩm binh khí, lương
thảo quân Hán bị mất trắng. Quân Nam Việt có tướng Trịnh Đình Thao và tướng Lê
Trung Kha tử trận.
Trong trận chiến phía Bắc có một
đột biến quan trọng, xuất hiện từ đất Hán thuộc Phúc Kiến, phía sau ngọn Việt
Thành Lĩnh đánh tới, là tướng tiền đạo họ Trịnh tên Bảo không ai biết đoàn quân
này xuất xứ từ đâu ?
Tướng quân Trần Bình Phương nhận
tin cấp báo đoàn quân này có hữu tướng tên Trịnh họ Trường, kỳ hiệu Châu Minh tả
tướng Lý Bình Trung, các tướng hậu đạo Chu Thông, Chu Thiện, Chu Hào và nữ tướng
Trần Kiều Oanh và Quách Tuyết Băng xuất binh từ huyện Tuần Mai tỉnh Nam Hải hiệu
kỳ Hưng Việt.
Vũ Thư Minh cấp báo cho tướng
quân Trần Bình Phương biết kỳ hiệu Châu Minh và kỳ hiệu Hưng Việt là tân binh
quân Nam Việt do những huynh đệ của Hoàng Phi Bằng chấn cử trận chánh Nam.
Vũ Thư Minh hô lớn :
Kỳ hiệu Châu Minh đem binh thọc
sâu vào hông phía tả của quân đảng Cờ Hồ, trận đánh nhanh và bất ngờ của Châu
Minh và Hưng Việt xem như quân Hán không còn lối sống, vì đường rút chính của
quân Hán tại Châu Minh trấn giữ, tướng tiền đạo Trịnh Bảo, hữu tướng Trịnh Trường,
Chu Thông, Chu Thiện.
Tả tướng Lý Bình Trung trên tay kỳ
hiệu Hưng Việt cùng các tướng hậu đạo Chu Hào, Quách Tuyết Băng làm phòng ngự cản
đường rút binh của Thái thú Dương Tài, nhờ có quân tướng kỳ hiệu Hưng Việt làm
quân tướng Hán banh manh giáp thương vong chín còn một.
Thu được toàn kho lương thảo bên
trong biên giới Hán, san bằng được doanh trại bổ sung quân Hán, quân tướng Hán
tử vong gồm có Dương Tài, Đinh Phổ, Ngụy Ma, Liêu Hóa, Trương Dực, Lục Kháng,
Tôn Ba, Lôi Minh, Tư Mã Cầu, bắt được trên hai ngàn binh sĩ Hán và chiếm được một
phần đất trên lãnh thổ của Hán phía sau ngọn Việt Thành Lĩnh.
Trận chiến kết thúc nhanh nhờ những
huynh đệ của Hoàng Phi Bằng và Trịnh Bảo.
Toàn dân háo hức chiến thắng biên
giới phía Bắc từ đây đã trở về cố quốc Nam Việt an cư lạc nghiệp. Tất cả lương
thảo chiếm được của quân Hán đem ra phân phát cho Lạc dân, trong khi chiến
tranh nhà cửa ruộng vườn của Lạc dân bị tàn phá nay tướng quân Trần Bình Phương
ra lệnh xây dưng lại cho Lạc dân và làm thông hào sâu bẫy chông tre để đề phòng
quân Hán phản công vào biên giới.
Soái tướng Nam Việt Vũ Đế nhận được
tin cấp báo mặt trận Tây và Bắc toàn thắng, mặt trận Tây–Đông hơn mười ngày mới
làm chủ được biên giới. Riêng mặt trận Bắc–Đông đang diễn biến phức tạp và ác
liệt, hai bên đồng tổn thất, đã bước qua mười lăm ngày vẫn chưa phân thắng bại.
Nam Việt Vũ Đế hạ chỉ dụ tướng
quân Phùng Nam và tướng quân Trần Bình Phương tiếp viện cho mặt trận Bắc–Đông,
về mặt biển Hoàng Hạc xuất tất cả thương thuyền biến thành chiến thuyền phòng
ngự mặt biển, không cho chiến thuyền quân Hán tiến vào cửa biển Hổ Môn và Kim
Môn, một số chiến thuyền của Nhật Nam bao phục từ mặt biển Quảng Châu đến Hải
Nam nhằm mai phục quân Hán bọc hậu xuống mặt biển phía Nam.
Tuyến phòng ngự trên bộ Bắc–Đông,
do Phiêu kỵ tướng quân An Dương Lạc hạ trại cửa biển Hổ Môn. Tướng quân Vũ Thư
Minh kéo toàn lực lượng Cần Lĩnh Nam Giang Trung và Thiếu Quân về án ngữ Châu
Giang và làm tiền đạo đánh tiến vào Bắc–Đông biên giới Phúc Kiến, Thành Lĩnh.
Riêng ngũ nữ phó tướng họ Chu hổ
trợ phục binh, do Chu Trang Thủy cùng Hoàng Anh Tuấn điều binh Thiếu Quân. Hai
phó tướng tiền phong Lạc Từ Thạch, Mân Bác Ninh, hai tướng trung phong Tô Tứ
Minh và La Thường Đức, phó tướng hậu trận Định Tình Nhi tiếp viện.
Bên quân Hán đặt bản doanh tại
Nam Phúc Kiến và liên trại phòng ngự dưới quyền chỉ huy của Thái thú Trương Tái
Tể. Tiền phong có các tướng Trọng Khả Phai, Lục Từ Khánh. Trung phong các tướng
Tương Ma Tư, Dương Trung Hẫu. Hậu quân cá các tướng Lục Phi Thắng, Trương Sào Đồng.
Mộc quân do tướng Lại Tử Sung. Tây quân do tướng Trần Cam Quỳnh, Đào Tú Thư. Hữu
quân do tướng Hồ Mi Gia, có cả bọn Mạc Hậu Tường bang và Khải Trần giáo phản tộc
Việt Mân.
Nam Việt Vũ Đế phát lệnh cho
Phiêu kỵ tướng quân An Dương Lạc tấn công quân Hán, binh tinh nhuệ của các tướng
quân Lạc Thạch, Mân Lạc và Lạc Đức đồng loạt tấn công quân Hán.
Cánh quân Nam Việt do Phiêu kỵ tướng
quân An Dương Lạc chỉ huy, xuất binh chưa đến phần đất bị Hán chiếm đã chạm
tráng với ba tướng Hán, như Đinh Pha, Lục Khánh, Tương Tư. Quân Nam Việt đang
núng thế, vì gặp phải một thế lực mạnh và có giao thông hào cản trở, các tướng
Nam Việt vừa phòng thủ vừa tấn công tranh dành từng tấc gang đất một, chưa phân
thắng bại quân sĩ hai bên tổn thất nhiều.
Một mặt khác tướng quân Nam Việt,
Vũ Thư Minh cho xuất quân đánh vào phía Bắc Thành Lĩnh, tiền phong tướng Chu
Thanh Thủy, đông phong Chu Ngọc Thủy, tây phong Chu Thượng Thủy, nam phong Chu
Hoa Thủy.
Chu Trang Thủy phất cờ lệnh quân
binh tấn công vào yếu huyệt quân Hán, bốn tướng Hán như Dương Trung, Lục Phi Thắng,
Lỗ Sung, Trương Sao Đồng kinh hải, không ngờ nữ tướng Nam Việt theo chiến thuật
bọc hậu, mỗi khắc cường độ gia tăng và ác liệt.
Tướng Vũ Thư Minh lượng định trước,
thọc thủng phòng tuyến hậu của quân Hán, nhất định bộc phá chiến thuật và bao
vây được mặt trước có giao thông hào phòng thủ của quân Hán, nhưng phải chấp nhận
hy sinh tướng sĩ mới phá trận.
Tiếp viện các tướng Nam Việt,
đang trên đường di chuyển binh mã từ mặt trận Tây vào mặt trận Đông, chỉ còn hai
ngày nữa là tiếp nối lại thành một lực lượng chủ động có thể cự địch lâu dài,
lúc đó Vũ Đế mới rảnh tay đứng vào vị trí Chính Nam.
Mặt tướng sĩ bọc hậu của Vũ Thư
Minh gặp phải cùng lúc bốn tướng Hán xung kích áp trận. Vũ Thư Minh xuất bộ
pháp "Bành phong hội", phi thân vào ngọn giáo, chiêu kiếm pháp họ
Hoàng thẳng tới tướng Hán Dương Trung. Dương Trung thân thể cao, vạm vỡ tay cầm
thương, thế tấn trụ như tượng đồng dũng mãnh, liền xuất chiêu "Thiên long
thương", một chiêu đầu đã nghe tiếng "keng keng..." loan xa mười
trượng, đủ biết đối thủ không phải là loại dễ thắng.
Vũ Thư Minh liền đối địch, xuất
chiêu "Minh thành quyết" trong "Công quyền Lĩnh Nam", tức
khắc tiếp thu thủ cấp của Dương Trung. Tuy họ Vũ lấy được thủ cấp của địch thủ,
nhưng lại bị một vết thương trước ngực khá trầm trọng, họ Vũ đã bị thương nhưng
lý trí và sức mạnh không giảm chí khí, họ Vũ quyết tử chiến với những tên tướng
Hán còn lại, ông phi thân tấn công không hề nao núng hay ham sống sợ chết, khả
năng chiến đấu họ Vũ còn thừa.
Chu Thanh Thủy và Chu Ngọc Thủy
thấy tình trạng của chồng mình trầm trọng, hai nàng phi thân vào trợ chiến,
trên tay kiếm đối địch với tướng Hán Trương Sào Đồng, còn Chu Ngọc Thủy đối địch
với Lỗ Sung.
Thời điểm này tướng Hán, Lục Phi
Thắng xuất chiêu tấn công. Vũ Thư Minh bình tĩnh xuất chiêu "Minh thành
công" trong "Công quyền Lĩnh Nam" lấy được một cánh tay cầm chùy
của Lục Phi Thắng, tay trái Lục Phi Thắng rút ra một chùy lớn xuất chiêu
"Hồ khẩu thủ" đâm tới. Chu Thượng Thủy thấy nguy hiểm phi thân vào trợ
chiến, kiếm tốc mây bạt núi, xuất luôn hai mươi thức "Ban phủ kiếm" của
Hoàng Phi Bằng truyên cho, cùng lúc sử dụng bộ pháp không đầy một khắc tiện hai
chân của Lục Phi Thắng, Vũ Thư Minh thừa cơ hội xuất chiêu "Đại la kiếm"
trong "Tuyệt Cao Kỳ Kiếm", thủ cấp của Lục Phi Thắng rơi xuống đất
sình.
Vũ Thư Minh và Chu Thượng Thủy
phi thân đến trợ chiến cho Chu Thanh Thủy và Chu Ngọc Thủy, thì thấy cả hai
cùng ôm nhau tư thế cùng sanh cùng tử.
Về hai tướng Hán, Lỗ Sung và
Trương Sào Đồng phanh thây thành hai khúc. Chu Thượng Thủy bị thương nhẹ, sức
khỏe còn sung mãn, riêng Vũ Thư Minh vết thương trước ngực quá sâu, họ Vũ thấy
tình cảnh vợ tử trận xúc động té ngã xuống đất ngất lịm như chết.
Chu Thượng Thủy cõng chàng phi
thân vào trại để cứu chữa. Chu Hoa Thủy, Chu Trang Thủy đồng phi thân xuất trận
đánh tàn binh Hán chạy tán loạn, rồi chia nhau cõng Chu Thanh Thủy, Chu Ngọc Thủy
về trại, biết không còn chữa trị được vì tim đã ngừng đập từ lâu và thân thể rất
nhiều vết thương trầm trọng, cả hai cùng khóc tiếc thương cho hai chị Chu Thanh
Thủy, Chu Ngọc Thủy vắn số.
Chu Thượng Thủy ghé vào tai Vũ
Thư Minh nói thầm giọng run run :
― Thưa phu quân đừng bỏ chúng thiếp
nhá ! Thanh âm tuy gần mà xa vì hơi thở không còn là bao ! Chu Hoa Thủy, Chu
Trang Thủy tuy ở xa nghe tiếng Chu Thượng Thủy nói vậy chạy tới khóc, nhưng lý
trí còn minh mẫn, phóng luôn vào huyệt đạo "Phong phù" "Trí đường"
"Hạ tam lộ" trong "Huyệt pháp Lĩnh Nam" năm khắc sau hô hấp
Vũ Thư Minh trở lại bình thường.
Ngũ nữ hiệp họ Chu sợ nhất là Vũ Thư
Minh tử trận, bỏ lại trần gian những nàng xinh đẹp, đảm đang việc nước và việc
nhà.
Vũ Thư Minh bị trọng thương mơ
mang trong giấc điệp đang đậu cành trà mi, hai tay ôm chặt ngũ đóa kim hoa, mỉm
cười, tỏa ra hơi ấm hương dìu dịu.
Nhớ lại ngày xa xa lắm có ngũ kim
hoa chịu nở một cành, chung một gánh, bởi thế ta hơi thẹn trần gian nhất gánh
ngũ cành hoa biết cười, tươi mộng thắm, liên miên trêu ghẹo cho ta niềm vui mỗi
ngày, lòng ta ngây ngất, nhất Thượng nương cho ta tình trải rộng, nhị Hoa nương
cho ta tình biết nhớ thương, tam Trang nương cho ta tình vương mãi mãi, tứ Ngọc
nương cho ta tình trào rung động, ngũ Thanh nương cho ta tình sáng long lanh.
Đêm nay ta rong chơi trong vườn
hoa nhà nàng, ta đứng cạnh ngũ nương đôi má hồng tươi, các nàng bảo ta đứng
yên, để mặc cho ngũ nàng xem ta như ánh trăng sáng vằng vặc, nhiều đêm ta đi
như kẻ khờ khạo để mặc tình cho ngũ nương xem ta như chòm sao Bạch Dương trước
cửa thiên đình kỳ ảo, ta cùng ngũ tiên bay vào động huyền bí tuyệt đẹp, đêm nào
cũng như đêm ấy, ngày nay và mai sau vẫn thế, tình yêu tràn đầy mãi mãi không
vơi. Ta xin nguyện tàn cuộc chiến, sẽ sống cùng ngũ nương trăm con ngàn tuổi,
ngày vui hạnh phúc ấy không lìa nhau. Bỗng dưng bị ngũ thiếp đạp chàng rơi xuống
giường.
Vũ Thư Minh thức giấc đau nhứt
quá, mà trong trí như còn mộng mê chàng hỏi :
― Tại sao huynh ngạt thở muốn chết
mất thôi, ngũ nương Thượng, Hoa, Trang, Ngọc, Thanh ơi huynh yêu tất cả.
Trong ngũ nương tử mất một thì đời
huynh không sống được, nếu huynh có qua đời thì nhớ chôn cùng mồ cho vui
nhá ?
Chu Thượng Thủy lòng đang buồn vì
sợ phu quân qua đời, nàng nghe được những
lời nói ấy của Vũ, lại càng buồn thêm, vì tiếng nói của chàng như đang bị nghẹn,
muốn nói mà không thành lời.
Chu Thượng Thủy đôi lời thủ thỉ
vào tai chàng :
― Thưa huynh, Trang tiểu muội đây.
Vũ Thư Minh nghe được tiếng nói của
nàng Thượng vui mừng chàng nói :
― Muội đi lấy nước cho huynh uống
nhé, cổ họng sao mà khô quá, khô cổ lắm rồi.
Vũ Thư Minh hớp được mấy ngụm nước,
rồi nằm lịm, tiếp tục mơ mang. Có lệnh chuyển tướng quân Vũ Thư Minh và Chu Thượng
Thủy về doanh trại Vũ Đế trị thương.
Hoàng Phi Bằng vừa đến thấy Vũ
thúc thúc bị trọng thương, liền búng vào đơn điền viên "Hương Tiên Thảo"
tam khác sau búng vào "Hương Ngọc Lộ" tiếp theo ngũ khắc búng vào huyệt
Trạc cốt "Hạc Chu Thảo" để xả ra máu ứ, giữ được sinh mạng của Vũ Thư
Minh, chỉ một khắc qua khỏi cửa tử thần, đúng là sống chết có mạng.
Chu Hoa Thủy khóc, nước mắt lau
chưa khô nói :
― Phu quân không thể chết được.
Hoàng Phi Bằng hiểu nổi khổ, đau
lòng của thúc mẫu, chưa kịp vấn an quí thúc mẫu thì Chu Hoa Thủy nói :
― Hoa, Thượng, Trang thúc mẫu đa
tạ Phi Bằng nhi, đã cứu sống thúc thúc. Hỏi tiếp:– Sao không thấy Phi Bằng nhi
có mặt ở chiến trường vậy ?
― Thưa thúc mẫu, Phi Bằng nhi
đang hành sử một việc rất quan trọng, chuẩn bị đưa đồng đảng phản quốc ra pháp
trường hành quyết, cho nên không ra chiến trường. Nhân đây Phi Bằng nhi có đem
theo xe tứ mã cước lực vô song để đưa Vũ thúc thúc về Phiên Ngung thành dưỡng bệnh.
Chu Thượng Thủy bâng khuâng ước
gì tình này duyên ấm, lòng ngậm ngùi không thể xa phu quân trong lúc chưa biết
sống thế nào ! Dù đã có Hoàng Phi Bằng bà vẫn chưa có cảm giác an toàn.
Chu Thượng Thủy ôn nhu hỏi :
― Thúc mẫu cũng đang bị thương vậy
Phi Bằng nhi còn thuốc để trị liệu không ?
Hoàng Phi Bằng thấy Chu Thượng Thủy
sắc diện bình thường, nhưng sao lại bị thương, thì ra thúc mẫu vì thương thúc
thúc cho nên quên mình đã bị thương, khi bình tĩnh mới biết đau.
Hoàng Phi Bằng vấn an :
― Thúc mẫu an tâm, Phi Bằng nhi
xem mạch lý thế nào đã rồi mới trị liệu. "Ối chà" bị trúng độc.
Chu thượng Thủy sợ hãi hỏi :
― Phi Bằng nhi độc khí thế nào
khó trị đeược không ?
― Thưa thúc mẫu an tâm, chỉ cần một
viên "Hạc Chu Thảo" là xả máu độc ra hết bệnh sẽ lành liền.
Hoàng Phi Bằng búng liền một viên
đơn, "Hạc Chu Thảo" và "Hương Tiên Thảo" mười hai khắc sau
lấy lại sức khỏe bình thương, không còn đau, tinh thần khởi sắc trở lại.
Giám binh Nam Việt cấp báo quân
tướng Hán tử trận hơn phân nửa, tướng quân binh mã Hán đang chạy loạn như rắn mất
đầu, lại bị bao vây phá trận, doanh trại của bọn cướp Hồng Sản tan vỡ, cả bọn
làm phản Mạc Hậu, Tường Chỉ bang, Khải Trần giáo, Chữ Minh đảng cũng theo chân
Hán tử vong trong trận.
Qua ngày thứ mười bảy hải chiến
hai bên khai trận do Quốc sư Hoàng Hạc chỉ huy ba mươi chiến thuyền, quân Hán
do tướng quân Vương Cao Hổ chỉ huy năm mươi chiến thuyền, lần đầu tiên quân Hán
thấy chiến thuyền của Nam Việt, quân Hán không biết những chiến thuyền này xuất
phát từ đâu đến, bởi thế quân Hán xem chiến thuyền Nam Việt như cỏ rác vì xem
thường địch thủ có thuyền nhỏ và ít quân sĩ, quân Hán tiến công vào cửa biển Hổ
Môn qua hai mặt thủy.
Đúng như quốc sư Hoàng Hạc đã bày
trận trước, tướng Hán tiền đạo tên Vương Cao Hổ ra lệnh bốn mươi chiến thuyền
cách tám mươi hải lý, mở cánh buồm tiến quân tấn công vũ bão vào cửa Hổ Môn,
Trung đạo do phó tướng Chữ Hầu Bảo, Hậu đạo do Ngô Trung Hiền và Cương Thu Tư
chỉ huy.
Quốc sư Hoàng Hạc xuất lệnh ứng
chiến, từ cửa Hổ Môn xổ hết cánh buồm và chuyển cánh buồm vào hướng lộng gió,
chiến thuyền nhỏ cánh buồm nhiều và lớn, bay như ngựa phi nước đại trên mặt biển,
chỉ hơn tam khắc, bốn mươi chiến thuyền của quân Hán đồng loạt phát ra tiếng nổ
"rầm...rầm..." chính những mỏ cá-đao đâm vào đáy chiến thuyền của
quân Hán, sức mạnh đại thương của cá-đao làm chiến thuyền Hán không chịu nổi kỹ
thuật thuyền qua của Nam Việt, chiến thuyền Hán bị đâm thủng nước ào ào chảy
vào khoang như thác đổ, chiến thuyền Hán từ từ chìm vào đáy biển, quân Hán kinh
ngạc thì đã muộn màn, tướng sĩ Hán làm mồi cá mập, số còn lại rất ít được vớt
lên làm tù binh gồm có Vương Cao Hổ, Ngô Trung Hiền và năm trăm binh sĩ khác.
Chiến thuyền Nhật Nam do các tướng
chỉ huy như Đại phu Tô Thành, Đào Tứ Cường, Lê Đằng, Trần Tam Hiệp, Bàng Lân
đây là phòng tuyến thứ nhì ngoài dự đón để chuẩn bị tham chiến với quân Hán.
Tướng soái Hán tên Hứa Phủ và các
Phó tướng như Tạ Cang, Từ Độ Khôn háo hức chỉ huy mười lăm chiến thuyền đi vòng
vào Nam Hải rồi tiến lên hướng Hổ Môn bọc hậu tiếp viện cho Vương Cao Hổ.
Một dự đón trở thành mục tiêu quan
trọng tại hải chiến biển Đông. Quân tướng Hán không ngờ chiến thuyền Nam Việt
thả bè bắt cá biển gọn gàng. Quân Hán thất trận thảm bại, đây là một cảnh cáo
cho quân Hán ngàn năm không dám dùng chiến thuyền vượt hải phận xuống biển Nam
Việt.
Các tướng trên biển của Hán chung
số phận làm tù binh như tướng Vương Cao Hổ, Chữ Hầu Bảo, hai tướng hậu đạo tử
thương như Ngô Trung Hiền và Cương Thu Tào.
Nhật Nam bắt được phó tướng Hán họ
Tạ tên Cang và hơn trăm binh sĩ khác làm tù binh, riêng tướng Hán tên Từ Độ
Khôn tử trận.
Người chiến thắng kẻ bại trận hải
chiến, thẩm định sức mạnh quân binh Nam Việt. Giám binh Nam Việt cấp báo trên
hai ngàn binh sĩ Hán làm mồi nuôi cá. Ba mươi chiến thuyền của Quốc sư Hoàng Hạc
và hai mươi chiến thuyền của Nhật Nam vẫn đậu ngoài khơi Hổ Môn, chỉ cho hai
chiến thuyền chở tù binh vào cửa Hổ Môn.
Quốc sư truyền lệnh thủy thủ đoàn
lặn xuống đáy biển để thu chiến lợi phẩm và đục thuyền lấy vỏ về sửa chữa lại,
công việc thu chiến lợi phẩm ba tháng sau mới hoàn tất.
Vũ Đế cho ghi vào sử sách lần đầu
tiên Nam Việt dụng binh hải chiến và kỹ thuật chiến thuyền vào năm thứ sáu mươi
ba Vũ Đế.
Nam Việt chiến thắng được là nhờ
kỹ thuật đóng thuyền hai đáy, sáng tạo trận đồ hải chiến, kỹ thuật hải chiến lấy
vận tốc gió để tấn công, trang bị chiến thuyền cũng khác. Vỏ thuyền hai đáy
chia ra làm hai phần trên và dưới, phần trên gồm thành thuyền và những cột buồm,
thành thuyền ngoài vỏ bọc thép có trên hai trăm khóa cột đại thương đầu bịt
thép, cột buồm có đến hai buồm câu, trung tâm thuyền có buồm cánh diều, dưới có
buồm vuông, buồm hạc, cộng vào sức mạng của gió có thêm cánh buồm hoàng một
vuông một hạc, tại boong thuyền có cột buồm phụng bạc, đầu thuyền có cột buồm
ưng, những cột buồm này rất hảo gió lộng chạy hết tốc lực, phần đáy thuyền thiết
kế rất tinh vi khi ra trận lấp vào đáy thuyền một đại thương như mỏ cá-đao dài
năm tượng bán kính, đầu bịt thép, hai bên hông đáy thuyền lấp vào mười đại
thương cá-đao dài ba trượng bán kính đầu bịt thép, khi ra trận thủy thủ được
chia ra làm ba đội quân cánh trên boong đối địch, cánh quân chèo thuyền và cách
quân lặn dưới đáy thuyền, thay phiên nhau trên boong dưới nước. Chiến thuật
tinh nhuệ nhất chuyển buồm lấy gió chạy dọc, gió chuyển buồm xoay chạy xuôi,
như người đi trên bộ, thân thuyền tùy nghi chuyển động do soái thủ ra lệnh cho
cánh buồm trung tâm là bộ não của chiến thuyền, đặc biệt thuyền có khả năng
chuyển hướng tả hữu, ngang dọc nhờ vậy mới đâm thẳng vào hai bên hông thuyền địch.
Tin nhanh hải chiến đã thắng trận,
lòng tướng sĩ náo nức tăng tốc tấn công vào mặt trận Bắc–Đông, toàn dân Nam Việt
tinh thần lên cao, ngày sau đích thân Nam Việt Vũ Đế lượt trận hải chiến, lúc
này thắng thua thấy rõ, có tin cờ quân binh Hán đã rũ xuống đại, triều đình Hán
đang truy điệu quân sĩ tử trận.
Thái thú Trương Thái Tể cũng nhận
được tin hải chiến thất thủ, lòng ông thối chí miệng thét lên :
― Cờ đã rũ. Thái thú Trương Thái
Tể ra lệnh cho Phiêu kỵ tướng quân An Dương Lạc:– Mỗ hạ lệnh tinh binh tấn
công, tướng sĩ bất phục tùng lệnh, trảm trước tấu sau.
Ba ngày sau Giám binh cấp báo,
Thái thú Trương Thái Tể sợ hãi cởi chiến bào bỏ chạy lấy thân, các tướng khác
cùng binh sĩ chạy theo chủ, chiến trận Bắc–Đông có ba tướng Hán tử trận, như Lê
Bình, Trần Đông và Lạc Thạch.
Quân Hán bỏ chạy để lại chiến trường
lương thảo, binh khí và quân bị. Chấm dứt cuộc chiến tranh, Nam Việt lập lại
biên giới Bắc–Đông, tất cả lương thảo thu được phân phát, xây dựng lại nhà cửa
và vườn ruộng cho Lạc dân, kết quả cuộc chiến Bắc–Đông thắng trận vẻ vang, quân
sĩ Nam Việt tử trận gồm có hai nữ tướng họ Chu Thanh Thủy, Chu Ngọc Thủy, nam
tướng quân gồm có Lạc Thạch, Mân Lạc, Lạc Đức, Đinh Bình Nhi, Lê Trung Kha, Tô
Tứ Minh. Tướng bị trọng thương gồm có Vũ Thư Minh, Chu Trang Thủy.
Trước mắt về quân tướng Hán chết
trong trận ba mươi lăm, bắt sống làm tù binh hai mươi hai tướng, bắt được tướng
bị thương sáu mươi, quân sĩ bị chết như núi, trên ba ngàn tù binh Hán, chiến lợi
phẩm võ khí, lương thảo, không đo, cân, đếm cho hết.
Tổng kết tướng sĩ của quân Nam Việt,
tử trận bốn trăm, bị thương ba ngàn. Kết quả trận chiến được ghi nhận "Vô
tiền khoáng hậu". Có thể nói, đây là sức mạnh quân sự Nam Việt, cảnh cáo
người Hán từ nay phải giao hảo Nam Việt và không nên xem thường Bách Việt.
Nam Việt Vũ Đế lập đàng hạ chỉ dụ
:
"– Tôn tộc Bách Việt lập quốc
nhờ hùng chí, trên dưới một lòng, hào kiệt hóa sức mạnh bạt non, dời núi, chấn
thủy. Nay quân thần Nam Việt giữ bền vững biên cương của tổ tiên không hao hụt
một tấc đất Lĩnh Nam.
Tổ tiên Bách Viêt đã đổ ra nhiều
xương máu mới lập quốc được như ngày nay, khó như vậy quân thần Nam Việt phải
giữ lấy đất tổ, anh hùng hào kiệt tướng sĩ một lòng vì xã tắc bảo vệ Tổ quốc.
May thay ngày nay lập lại được bốn biên giới cũng nhờ tinh thần hùng chí của tổ
tiên, toàn thể Lạc dân, quân thần một lòng quyết định từ nay khai tử những kẻ
mãi quốc cầu vinh là tức khắc bài trừ không dung thứ, bởi họ nhận Hán làm tổ quốc".
Nam Việt Vũ Đế liền xuất chỉ:– Nay lập pháp trường biên giới xử trảm tất cả những
quan quân mãi quốc cầu danh phản tôn tộc Bách Việt, phản Nam Việt quốc. Những kẻ
bị trảm đời nay sẽ lưu danh để đời sau làm gương.
Cơ Mật Viện đọc họ tên những tội
phạm làm phản nhận giặc làm cha gồm :
― Võ nghiệp có Đạo sĩ La Đức trưởng
liên đảng Châu Minh, Tể tướng Vi Quốc Đại, tướng quân Triệu Phương Đa, Tá trung
lang tướng Trần Hoàng Thư, Chinh tây tướng quân Lê Thông, Tiền tướng Quân Nguyễn
Bạch. Nhưng trong danh sách này vắng mặt hai tên như Lư Tân Hải và Lư Hoa Hồng
Cúc.
Hoàng Phi Bằng cũng không biết
hai tên vắng mặt là ai, có lần hỏi La Đức cho biết Lư Tân Hải có người con gái
tên là Lư Hoa Hồng Cúc hai cha con hành tung bất định, tuy võ học sơ mà có tài
trí hơn người, chỉ có La Đức mới nhận diện ra được hai nhân vật này, nhưng nay
không biết họ sống chết và lưu lạc ở đâu !
Tôn Nhân Phủ có Triệu Tú Hải, Triệu
Nguyên Dõng, Triệu Thứ Lan, Tư Đồ Triệu Đạt Hùng, Thái Úy Triệu Mẫu Phương cũng
được đem ra trảm về tội làm phản.
Văn nghiệp có Quốc công Nguyễn Bồ
Trọng, Thừa tướng Triệu Đa Bảo, Quốc hầu Tô Công Chính, Cửu viện Thượng thư Triệu
Không Cương, Thái phó Phùng Hảo Anh, Quan Thị Ngự Sử Bạch Đình Hồng.
Họ tên trong danh sách bị trảm
toàn là đại thần triều đình và có ba người cháu gọi Vũ Đế bằng cố, đích thân Muội
Hồ duyệt xét rất cẩn thận cuối cùng cũng bị trảm, từng người một rơi thủ cấp.
Toàn thể Lạc dân và quân binh mã tướng Nam Việt đồng chứng kiến, hậu chiến trường
tiêu diệt được những kẻ mãi quốc cầu vinh là đại thắng lớn của Nam Việt Vũ Đế.
Tiếp theo Vũ Đế xuống chỉ dụ tại chiến trường :
― Trẫm bố cáo trước toàn Lạc dân,
nay bốn biên giới Tây, Tây–Bắc, Bắc và Bắc–Đông được miễn thuế ba năm, được cấp
ngũ cốc làm mùa hai năm, những biên giới không bị chiến tranh cũng được miễn
thuế hai năm và cấp ngũ cốc làm mùa nửa năm, toàn thể thanh niên từ hai mươi đến
ba mươi phải ghi danh thi vào võ đường, khi binh biến hữu dụng bảo vệ biên giới
của Tổ quốc, tức là bảo vệ tài sản chung của Bách Việt. Tất cả biên giới lập Võ
đường và Văn Võ Miếu tại thành Phiên Ngung để hương khói những vị anh hùng hy
sinh vì Nam Việt.
Quân binh sĩ có công trạng giữ
biên giới được thăng quan, tiến chức không phân biệt nam hay nữ giới.
Nam Việt Vũ Đế xuống chiếu chỉ thứ
hai :
― Tướng sĩ của nhà Hán được trả về
nguyên quán, Nam Việt giao hỏa nhà Hán không xâm phạm biên giới lân bang, lưỡng
quốc đồng bảo vệ biên giới vĩnh viễn thanh bình. Từ đây và mai sau Lĩnh Nam
riêng một triều đình Nam Việt .
Khải hoàn hồi triều Cờ Hoàng
(Vuông) phất phới, Soái tướng Nam Việt Vũ Đế đi đầu.
Cờ Hạc (Thang) của Lạc Việt tướng
quân Phùng Nam, Âu Việt tướng quân An Dương Lạc, Dương Việt tướng quân Đinh Bá
Khôi, Mân Việt tướng quân Trần Bình Phương, Đông Việt tướng quân Nguyễn Ngọc
Trang, Nam Việt tướng quân Phạm Bá Tư, Lạc Việt tướng quân Hồng Hưng Lạc, Việt-Mường
tướng quân Lê Trung Văn, các đng chủ Lạc Hồng, Lạc Khương, Lạc Trưng, Lạc Thạch,
Mân Lạc, Lạc Đức và đại diện Bách Việt hải ngoại Trần Hoa Nam, Tô Trung Sứ, Mạc
Tài Sơ, Trịnh Khả Minh đi cuối cùng.
Về đến Thành Phiên Ngung Nam Việt
Vũ Đế hạ chỉ dụ:– Nay trẫm lập Văn Võ Miếu riêng cho biên giới và thực hiện những
lời hứa trước khi xuất quân.
Truyền lệnh sứ Hoàng Phi Biên từ
Trung Nguyên về nước, vội vã vào triều tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
thần dân xin dâng chỉ dụ của Hán Đế. Vũ Đế truyền chỉ :
― Khanh đọc chỉ dụ nhà Hán cho cả
triều thần cùng nghe và luận bàn.
― Thần tuân chỉ :
"– Niên vận Hán Đế Trung
nguyên, người thưa đất rộng, trẫm không có ý riêng đánh chiếm biên giới của tiểu
quốc, những cố sự vừa qua là do địa phương lạm quyền. Trẫm nhận được tin này
đương nhiên sẽ trừng phạt bầy tôi. Tuy vậy trẫm chấp thuận đề nghị lui binh của
Nam Việt, từ nay đường biên giới cách xa một dặm không ai được sinh cư. Lưỡng
quốc giao hảo không xâm phạm biên giới lẫn nhau. Ngoại trừ cửa biên giới đã qui
định trước nay là nơi thông thương giao hảo cấp lệnh sứ đại diện lưỡng quốc.
Khâm thử.
Thay mặt Hán Vũ Đế
Lã Hậu"
Ấn ký Hán Vũ Đế Hành Tỉ
Quân quan triều thần Nam Việt bàn
luận chỉ dụ nhà Hán: – Kẻ cướp giả làm thánh nhân, đúng là nhà Hán Lưu Manh
thay vì Lưu Bang .
Sau khi thắng trận Nam Việt Vũ Đế
trị vì Tứ thập lục niên, hạ chỉ dụ quan trọng thay đổi trị chính và an dân.
Huỳnh Tâm
E–mail: huynhtamh4@gmail.com
Kho Tàng Việt Vương, tất cả 10
chương.
Đọc tiếp chương 7.
Ấn Vàng Một Quả Kiếm Hùng Tam
Thanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét