Ấn Vàng Một Quả Kiếm
Hùng Tam Thanh
Nam Việt Vũ Đế lập đàn chủ lễ, Nam
Vương Phùng Nam, Tượng Quận Vương, Trường Sa Vương, Nam Hải Vương, Giao Chỉ
Vương, Cửu Chân Vương, Nhật Nam Vương, Đông Hải Nam Vương, Tây Hải Nam Vương, Hoàng
Hạc thay mặt Lạc dân đồng phó đàn anh hùng Nam Việt.
Lập đàn tháp ghi ơn thập nhất anh
hùng tuẩn quốc, tháp bằng đá thạch ngọc màu xanh tiên thể, rộng lớn, cao uy
nghi, tú lệ, mang dòng chữ "Lĩnh Nam Anh Kiệt". Toàn dân đi ngang phải
nghiêng mình kính cẩn.
Bài vị ghi danh Thập Nhất Anh
Hùng Nam Việt :
– Trịnh Đình Thao, Chu Thanh Thủy,
Chu Ngọc Thủy, Lê Trung Kha, Nghiêm Hà Đức, Lý Hòa Dũng, Lạc Thạch, Mân Lạc, Lạc
Đức, Đinh Bình Nhi, Tô Tứ Minh.
Ngày sau Đại Tường bài vị đặt tại
Văn võ Miếu. Nam Việt Vũ Đế xuất chỉ dụ, phong hầu Lạc Việt tướng quân Phùng
Nam làm Phó Nam Vương trị chính phía Nam gồm Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Vũ Đế thực hiện lời hứa trước anh
linh thập nhất anh hùng và toàn quân dân Nam Việt tham dự trận chiến biên giới.
Toàn thể anh hùng, quân dân có công tuân chỉ vào Điện Thái Hòa tiếp nhận lễ
vinh thăng, bổng lộc và được thưởng rượu Vĩnh Hòa .
Tiếp theo Quốc sư Hoàng Hạc phân
phối trên sáu ngàn chiến mã cho mỗi tướng sĩ có công đầu trong trận biên giới, quân
binh lớn nhỏ đều có phần thưởng, lễ hội chiến thắng tưng bừng.
Nam Việt toàn vẹn lãnh thổ, Lạc
dân từ Bắc xuống Nam sinh cưa lạc nghiệp, đời sống sung túc hơn trước, dẹp được
hoạn quan, tham ô, nhu nhược, hoàng thân quốc tích không còn quyền thế như trước
và bọn mãi quốc cầu vinh bị trừ diệt.
Trận chiến biên giới Bắc–Đông đã
tàn, không ngờ có một thiếu phụ ngồi bất động, ôm đứa con trai ba tháng tuổi,
khóc "hu...hu..." vì tướng công đã tử trận.
Lệ rơi đầm đìa che phủ cả trần
gian, lòng tối như chốn không nhân sinh, tiếng than trầm mặc, âm thanh ảm đạm
thê lương, thở dài tiếc núi phận mệnh đeo đuổi anh hùng vắng số.
Người thiếu phụ khóc lớn tiếng:
― Nay thiếp nhớ mãi và nhớ rất rõ
ngày ấy, có một thanh niên bị hai vết thương trên vai và một vết thương khác trước
lòng ngực, khi ấy muội không biết từ cõi nào đến một chàng trai nhờ muội chữa
trị, khi cởi áo đầy liễm mấu, cũng là lần đầu tiên hai tay muội chạm vào thân
thể người thanh niên xa lạ, cảm thấy như trời sụp đổ, muội tản lãnh nhưng lòng như
bình thản, tuy thấy vết thương chàng quá nặng, nhưng thân hình rắn chắc, vạm vỡ,
gồ lên từng ấy bắp thịt, vai vộng, chàng nhắm mắt ngất liễm, như người thả lỏng
nội công, mồ hôi toát ra thơm kỳ diệu, hai tay muội lau rửa và thoa thuốc
"Hoàng Hổ Cao" cho huynh, sau đó vết thương trên vai, lòng ngực của
huynh đã khô và đóng vảy, lúc ấy huynh tỉnh lại, thấy đôi mắt huynh tròn xoe,
môi chàng tủm tỉm cười tạ ơn, đôi má muội hồng hồng lòng muốn nói nhưng miệng
khó nên lời.
Ngày trôi qua mới biết huynh là
Hoàng Đức bang vang danh kiếm pháp, huynh bị thương vì xã tắc, mưu cầu hạnh
phúc cho người. Không bao lâu vết thương trước lòng ngực lành lại hoàn toàn, muội
không còn thấy những cái vạm vỡ ấy nữa, muội mới biết thèm thuồng và muốn khám
phá uy lực trên thân thể của huynh, từ ấy muội cảm thấy yêu huynh tha thiết.
Một hôm lòng muội bơ vơ, chân cứ
bước theo vòm trời trăng sao, từ xa muội nghe huynh thì thầm :
"Thương em nhớ quế hương gừng
Tỏa ra anh biết ngát lừng trời
mây
Nhớ em mê mẩn tỉnh say
Hỏi em tình ấm mượn đầy tim chưa".
Thì ra huynh đang ở bên muội, hôm
ấy lòng muội như đang nổi rét, huynh cầm lấy tay lòng ấm lại, từ ấy huynh và muội
bay bổng vào không gian, rồi tình thê phu nối tiếp bình an, sinh được một hài
nhi chàng gọi tên là Trịnh Đình Thông. Muội rất tự hào, phu quân làm trai anh
hùng, giờ ngồi đây muội hóa phận trầm mai. Phu quân ơi ? Đi xa không trở lại,
thiếp sống làm sao được khi vắng bóng người. Thân muội nhờ núi, núi rỗng, nhờ
nước, nước trôi nay chỉ còn hài nhi là nguồn sống duy nhất, muội nhớ chân dung chàng
tạm ấm áp lòng. Muội phải sống vì hài nhi là tạo hóa của chàng, muội phải sống
thay lời chàng trừ giặc Hán.
Thiếp cùng Thông nhi phải sống
"hu...hu..." Tiễn chân phu quân nhẹ nhàng vào cõi siêu tại, hưu mỹ.
Sau cuộc chiến biên giới đến hồi
an hưởng thanh bình, Nam Việt đi vào xây dựng đất nước. Hoàng Hạc khởi đầu sử dụng
kho tàng nhằm phát triển đất nước, qua sự phê chuẩn của Nam Việt Vũ Đế. Tuy đã
có một kho tàng trên tay nhưng sử dụng thế nào cho hợp lý, không bị phá sản một
cách phi mã. Lần đầu tiên quốc sư Hoàng Hạc đem kho tàng vào việc mua trên sáu
ngàn con chiến mã tặng tướng sĩ tham dự trận chiến biên giới, mục đích khích lệ
quân binh sĩ, đồng lúc tạo ra phương tiện cho quân cơ phòng thủ cả nước.
Chiến mã trở thành phương tiện di
chuyển và tác dụng an ninh Nam Việt. Hoàng Hạc đi qua Hán mua chiến mã khoẻ giống
tốt, lập trại nuôi gầy giống, khởi đầu mua chín giống cái, một giống đực. Đặc
biệt Vũ Đế ban chỉ dụ lập danh bộ phân phối chiến mã, lập tịch sinh và tử chiến
mã. Mỗi binh sĩ được làm chủ chiến mã nhưng không được bán, chiến mã bị bệnh
thì đem đến trại chăn nuôi để chữa trị, chiến mã bị chết thì được cung cấp lần
thứ hai, cho phép gầy giống kinh doanh tự do.
Đời sống tinh thần của toàn Lạc
dân hưng khởi hơn trước, lý do là Nam Việt Vũ Đế dẹp được loạn hoạn quan, tham
ô, nhu nhược, hoàng thân quốc thích không còn quyền thế như trước, bọn mãi quốc
cầu vinh bị trừ diệt, nay Nam Việt trải rộng quyền cai trị mới, lập tướng quân
Phùng Nam làm Phó Nam Việt Vương kinh đô Nam ở Đại La, cai trị từ Long Biên đến
Nhật Nam.
Nam Việt Vũ Đế hỏi Hoàng Hạc :
― Quả nhân thấy khanh tặng hơn
sáu ngàn tuấn mã tạo phương tiện phòng thủ, công việc lập trại chăn nuôi, trị
liệu, lưu giống đó là một sáng kiến rất hay, giá phòng trước đây mà có chiến mã
như thế này thì binh mã Nam Việt hùng mạnh biết mấy .
Quả nhân hỏi khanh chi phí ấy lớn
lắm, chính kho dự trữ kim ngân của triều đình xuất hết cũng không mua được từng
ấy chiến mã, nay tạo được binh hùng tướng mạnh như vậy quả là khanh đã hy sinh
nhiều lắm, hai nữa chiến trận vừa qua giá mà không có khanh thì khó chiến thắng
được, điều này ai cũng biết tài chước lược của khanh đúng là háo tình tráng
khí, tấm lòng lân tài an dân. Nay tự đáy lòng quả nhân tha thiết muốn cầu khanh
tiếp nhận quyền trị quốc, quả nhân trao ấn kiếm cho khanh, ý khanh thế nào ?
Hoàng Hạc lật đật quỳ xuống đất
bái lạy, miệng tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
thần dân nay đã quá bách niên rồi còn ham muốn gì mà ấn kiếm với ngai vàng, trời
sinh ra nhập thế việc nào người đó, mỗi người có một giá trị riêng.
Điện hạ nghĩ xem, làm vua rất khó
và do số mạng trời đã định, không một ai muốn mà được, giá như có kẻ muốn đoạt
ngôi, soán đế danh cũng không thành, nếu có thành thì lịch sử cũng không để
yên, hạ thần và cả gia quyến chỉ xin làm tôi trung hiếu Bách Việt là đã mãn
nguyện lắm rồi. Điện hạ có thương yêu hạ thần thì bỏ qua suy nghĩ chuyển ngôi,
vả lại ngày nay Nam Việt đã có kỷ cương vương pháp mới.
Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ.
Nam Việt cần có một Hoàng đế tốt yêu dân, can đảm, cương quyết, dám dấn thân và
hy sinh, duy chỉ có điện hạ mà thôi, chính điện hạ ngự triều tại thành Phiên
Ngung cai quản cả nước, còn đất Phong Châu là địa danh Đại La do phó Vương Nam
Việt Phùng Nam cai quản Giang Nam, đó là sức mạnh của Nam Việt ngày nay.
Nam Việt Vũ Đế vẫn có những âu lo
khác nói :
― Quản nhân nghĩ rằng sơn hà xã tắc
trông cậy vào thời sinh này, nhưng quả nhân không làm được việc gì hữu ích cho
lắm, cũng không để lại cho mai sau một giang sơn gấm vóc hùng vĩ thì đáng tiếc
lắm vậy !
Hoàng Hạc nghe Nam Việt Vũ Đế
than thân trách mệnh cửu trùng, rồi nghĩ thầm:– Tại sao nhân dịp này mình chưa đưa
ra phương thức tích tụ tại phú, để thi hành hoàn chánh thì may ra Nam Việt Vũ Đế
hạ chỉ cho mình được tự do thực hiện nguyện vọng của Phi Bằng nhi. Hoàng Hạc liền
trình tấu :
― Muôn tâu Hoàng thượng bệ hạ, tiểu
thần xin trình tấu một kế sách "Dân Di Bản, Phú Tắc Cường" hạ thần
khao khát thực hiện kế sách đúng với thần dân Nam Việt đang cần. Nhằm thể hiện
trung hiếu Quân thần, thì lòng thần mới an. Trình tấu tiếp:– Muôn tâu Bệ hạ,
nên xuất chỉ dụ về Thất chế, nhằm khuyến khích Lạc dân, phát triển kinh doanh,
nghề nghiệp chuyên môn, sản xuất, khai khẩn thổ canh, giao thương lân quốc.
Triều đình qui định sách trị quốc,
cung cấp phương tiện giáo huấn, bải miễn Vương thổ, phân phối tài sản quốc gia
cho Lạc dân toàn quyền làm chủ điền trang, điền thổ, trạm dịch v.v...
Thực hiện được "Dân di bản
cũng cố an ninh, dân phú tắc đắc cường". Bát sách "Cải thiện dân chủ
nhân sinh" gồm có :
– Nhất Nông Xuất: Khai khẩn ruộng
nương, đất vườn, rẫy bái, nuôi tơ tầm. Chiếu theo qui canh điền, điền thổ phân
phối hạt giống ngũ cốc, cây trồng.
Chăn Nuôi: Lạc dân từ mười tám tuổi
trễ lên phân theo quy định sản xuất, mỗi gia đình được phân phối như gà, vịt,
heo, bò, trâu v.v... Lương thực nuôi gia súc cung cấp miễn phí ba năm. Tất cả
gia súc được triều đình mua lại với giá cao.
Rừng và lâm sản: Lập điền thổ Lạc
dân thay vì điền thổ Hoàng triều, khai thác tược nuôi trồng cây đa niên, trồng
cây sản xuất binh khí. Bảo vệ rừng thiên nhiên và thú rừng.
Ngư Nghiệp: Chiếu theo qui định
cung cấp phương tiện ngư nghiệp, như tơ đan lưới, gỗ làm ghe thuyền. Lạc dân
trên mười tám tuổi được cung cấp toàn bộ phương tiện ngư nghiệp, đóng thuyền to
nhỏ tùy theo kết hợp Lạc dân, cá được bán trong nội địa và các lân bang.
– Dẫn Thủy Nhập Điền: Cung cấp nước
cho trồng trọt, nông nghiệp, ngư nghiệp, chăn nuôi. Vận động Lạc dân sản xuất
thủ công nghiệp.
– Vũ binh, tuyển hiền tài: Lập võ
nghiệp đường, lò đúc và sản xuất binh khí, đào tạo Lạc dân thông thạo việc
binh, luyện tập Lạc dân tự đối phó với người Hán, lập sở đóng thuyền chiến,
nuôi và mua chiến mã.
– Quân Kho: Dự trữ ngũ kim vàng,
bạc, thép, đồng, chì, thau, kẽm mua từ Trung nguyên chở về nước. Mỗi Vương phủ
lập kho dự trữ riêng, như dự trữ quân dụng, binh khí, lương thảo, chiến mã.
– Giáo Dục. Thi cử hiền tài trí
sĩ, đào tạo văn nhân, võ bị bổ dụng làm quan, lập cơ sở kinh doanh, giao dịch,
khuyến khích Lạc dân hướng về quyền công dân.
– Ni Trị: Hoàng chánh vì cho dân,
thưởng phạt, bổng lộc minh chính, bổ dụng thay cũ đổi mới quan trường, lập nhị
đô Bắc có Phiên Ngung và Nam có Giao Chỉ. Trùng tu thành trì cũ mặt Bắc, xây dựng
thành mới mặt Nam, riêng Phiên Ngung xây dựng vòng thành thứ ba. Nghĩa vụ Lạc
dân bảo vệ đất tổ và muôn dân đối với Nam Việt một nhà chung.
– Giao Hảo Lân Bang: Triều cống
phẩm vật lẫn nhau, thỏa hiệp an ninh biên giới, trao đổi văn hóa, giao dịch
hàng hóa, bán binh khí.
Dùng ngũ kim, danh lợi sai khiến
quan trường Trung nguyên, kết giao giới giang hồ tặng kiếm, đao, thương.
Trọng hiền đãi trí sĩ lân bang,
nhất là nhà Hán để không còn ai màn đến chính sự.
– Hợp Việt Xuất Hán: Bổ dụng và
tuyển mộ người tài đức lập ra nhân xã, nay đất nước cần những sĩ chí hợp nhất
Bách Việt, xóa bỏ dị biệt của quá khứ, khuyến khích Lạc dân xây dượng đất nước
trên căn bản giải không kết và cả quyền cai trị nước phải lệ thuộc vào Lạc dân,
gọi là hợp để thực hiện theo ý chí của Lạc dân, triều đình chia sẽ quyền lợi
cho Lạc dân vào không xâm phạm quyền sống của Lạc dân.
Đã là Bách Việt lấy giải để chung
sống một nhà, giải đi trước nước hợp theo sau. Cõi Lĩnh Nam là của Bách Việt
không riêng của một ai, văn hiến Hùng Vương là mục sống máu đào Nam Việt.
Nói chung đất nước đã giải thì hợp
không khó, nếu không giải được thì hợp bất hòa. Nam Việt cần một khối Bách Việt,
không phân biệt hay chia cắt, tránh được tranh chấp trong tương lai, tránh được
mọi tổn hại sau này, lòng yêu sông núi không bị suy giảm, Nam Việt mới được mọi
người cảm nhận, như một tình yêu Việt không thể thiếu, nói chung đất nước Nam
Việt phát minh lòng yêu thương xã tắc. Lạc dân làm chủ những biến cố lớn nhỏ và
chấp nhận mọi thử thách, nhất là Lạc dân tự do tạo nghiệp, mỗi Lạc dân yêu nước
theo cách nhìn của mình.
Ý của Hoàng Hạc đưa ra Bát sách cải
thiện nhân sinh và trị chính mới, mục đích làm cho dân giàu nước mạnh mà không
hết kho tàng, người mưu trí mỗi việc đều nằm trong thuật xếp đặt để đạt thành
công.
Nam Việt Vũ Đế lắng nghe Hoàng Hạc
trình bày Bát sách, như trong lòng từng vọng cầu phép lạ từ lâu. Vũ Đế ngồi suy
nghĩ, hai tay bưng ly rượu Phỉ Thúy nhâm nhi, rượu vào thì sầu tràng tuôn ra,
vì ông thừa biết Bát sách khó thành công, tuy vậy cũng là dịp tâm ý tương
thông, hiểu được kiến văn uyên bác của Hoàng Hạc đương nhiên là người tâm đắc .
Vũ Đế buông một tiếng thở dài :
― Quả nhân thuận tấu Bát sách
"Dân di bản, phú tắc cường" của hiền khanh, đó là phép lạ dân giàu nước
mạnh, như quả nhân từng nuôi trong tư tưởng "Nông phát xuất, tắc ban kỳ thực,
công xuất tắc kỳ sự".
Nhưng khổ thay kho dự trữ kim
ngân của Nam Việt không còn là bao, quả nhân đã trình bày rồi !
Nhân đây nói thực để hiền khanh
hiểu, quả nhân đã xuất chỉ dụ không cho Hoàng Triều tự xuất tài sản đó, muốn xuất
kim ngân vì mục đích Nam Việt phải được cả triều đình phê chuẩn, hiện nay trong
kho có nhiều kim ngân, vật quý cũng nhờ thu nạp được tám mươi bốn tên mãi quốc
cầu danh và trên hai ngàn gia sản quan lại tham ô, sâu dân mọt nước, quyền thế
chia phe lập đảng phản quốc. Một số tài sản khác của Tôn Nhân Phủ cũng được
sung công vào quốc khố, nếu nay xuất hết cũng không làm được một việc nông nghiệp.
Hiện thời quả nhân cùng Tôn Nhân Phủ sống rất giản dị.
Hoàng Hạc xúc động trình tấu :
― Muôn tâu bệ hạ, quả là bệ hạ nhạy
cảm xúc giác và tâm nhãn, chính là vị Đế Vương xuất tam bảo kỳ tuyệt, về bát
sách mà hạ thần đã tâu. Nay hạ thần xin nhận trách nhiệm làm được lục sách, chỉ
còn nhị sách Bệ hạ sẽ làm được.
Nam Việt Vũ Đế ngạc nhiên hỏi :
― Hiền khanh nói sao, quả nhân
làm được nhị sách gì, dù có khó muôn lần quả nhân cũng không xá chi kiếp sinh
này. Còn hiền khanh nhận làm đến lục sách ắt hẳn khác nào "đội đá vá trời",
tại sao không tìm người để chia việc cùng hiền khanh ?
Hoàng Hạc vui mừng xem như Vũ Để
đã chuẩn chỉ, tâu tiếp :
― Muôn tâu bệ hạ chỉ làm được nhị
sách như Giao hảo lân bang, Nội trị bát
phẩm triều đình, bổng lộc theo quy định mới. Cón lục sách hạ thần nhận thực hiện,
không cần phải xuất kho kim ngân Nam Việt, triều đình cũng không cần phê chuẩn,
còn phần chia việc làm cho ai thì hạ thần sẽ trình bày sau.
Nam Việt Vũ Đế lại càng ngạc
nhiên hơn hỏi :
― Quả nhân làm việc Giao hảo lân
bang, Nội trị thì không khó gì cả, quả nhân tiếp nhận nhị sách này, còn lục
sách kia đụng vào là kim ngân tuôn ra như nước, dù có kho tàng cũng thực hiện
không thành, hiền khanh lấy ở đâu ra mà thực hiện cái vung trời to lớn này ?
Hoàng Hạc thuyết phục được Vũ Đế
cũng không phải là dễ, vì mỗi lời nói trước mặt nhà vua phải cuốn lưỡi mười hai
lần, nếu lỡ lời không khác nào thủ cấp đang trên lưng bò gỗ .
Hoàng Hạc điềm tĩnh tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng bệ hạ,
kinh phí trang trải cho lục sách do sư phụ của Hoàng Phi Bằng cung cấp, điều kiện
xây dựng Nam Việt không được sử dụng riêng tư.
Sư phụ của Hoàng Phi Bằng dạy hạ
thần đứng ngoài xưng vương, không vì tư lợi công danh và buộc hạ thần phải
tuyên thệ: "– Tại hạ Hoàng Hạc, con dân Bách Việt họ Lạc Việt hứa với liệt
tổ, liệt tôn thiêng liêng chứng giám lòng chung thủy bảo mật kho tàng cho Bách
Việt, sử dụng kiến thiết sơn hà xã tắc, không vì riêng tư một hạt bụi nào của
kho tàng, nếu có hai lòng thì trời đất trên dưới chứng giám soi xét đọa đày cả
họ Hoàng nhà tại hạ đời đời kiếp kiếp không có một hạt ngũ cốc nào để ăn".
Sư phụ của Hoàng Phi Bằng còn dạy
tiếp rằng: "–Kho tàng này chỉ tiết lộ cho Nam Việt Vũ Đế biết mà thôi,
ngoài ra những thừa hành khác không được biết tài sản này từ đâu đến".
Nam Việt Vũ Đế nghe lời thề của
hiền thần lòng ái ngại hỏi :
― Hiền khanh đã sử dụng kinh phí
đó vào việc củng cố binh phòng thủ, đương nhiên khanh đã gặp được Người, nhân
đây quả nhân cũng muốn đích thân thăm viếng và đa tạ Người, có như hế mới biết
"Tre vàng lột vỏ".
Hoàng Hạc đương nhiên phải tráng
né về kho tàng, liền tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng bệ hạ,
đúng vậy, hạ thần đã sử dụng một số kim ngân của sư phụ Hoàng Phi Bằng vào việc
củng cố binh phòng thủ. Trước đây hạ thần có thăm Người được một lần, nhưng chỉ
thấy chân dung trong lờ mờ, chính Hoàng Phi Bằng là đệ tử cũng chỉ thấy Người
như hạ thần. Người nói chuyện qua trung gian Hoàng Phi Bằng, nếu Bệ hạ muốn đến
thăm Người thì chỉ có Hoàng Phi Bằng mới đưa Bệ hạ đi được mà thôi.
Nam Việt Vũ Đế cũng muốn biết
thân thế sư phụ của Hoàng Phi Bằng là nhân vật nào, sao Người lại sống trong bí
mật với một kho tàng cũng bí mật, nói tiếp :
― Hiền khanh an tâm, ngày mai quả
nhân ban lục chỉ dụ để hiền khanh thực hiện xây dựng Nam Việt, nhưng muốn cho
công việc được hoàn bích thì quả nhân ban phẩm quan thực thụ Quốc sư tại triều
Nam Việt, ngoài ra trên tay phải có Thượng Phương Bảo Kiếm, toàn quyền trảm trước
tấu sau, hiền khanh tùy ý chọn người thừa hành.
Nếu hiền khanh không có chức quan
ở trên người thì "bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chánh". Theo sách có câu:
"Danh bất chánh tức ngôn bất thuận, ngôn bất thuật tức bất thành" nếu
không thì e rằng có lời dị nghị trong quan trường. Nay hiền khanh hãy tạm nhận
lấy trách nhiệm này để thực hiện theo ước nguyện.
Hoàng Hạc biết đây cũng là một việc
bất đắc dĩ, khó chối từ tâu :
― Muôn tâu Hoàng Thượng điện hạ đã
sủng thần thì tùng mệnh, đây cũng là bất đắc dĩ nay hạ thần xin tiếp chỉ. Hoàng
Hạc tâu tiếp: – Muôn tâu Bệ hạ, hạ thần mạo muội xin Hoàng Thượng duyệt thẩm lục
sách và chuẩn y, trước triều thần mới tránh khỏi chểnh mảng thi hành lục sách,
toàn thể Lạc dân cũng cảm khái được Vua-tôi trên dưới một lòng xây dựng Nam Việt,
một khi Quân thần đồng tâm thì tránh được sâu dân mọt nước, tham ô, lạm quyền.
Nam Việt Vũ Đế hài lòng ban chỉ:
― Quả nhân đồng ý với khanh, chọn
nhân tài đức từ quan quân liêm khiết, tâm huyết vì dân. Quả nhân thấy những
quan quân ấy phần đông đã từng tham dự cuộc chiến biên giới, họ sẽ thi hành chỉ
dụ như ý của hiền khanh, còn ý của quả nhân việc trước mắt là xây dựng Giang
Nam như đất Phong Châu, Nhật Nam, Cửu Chân.
Hoàng Hạc vui mừng Vũ Đế đã cảm
nhận được tầm quan trọng đất Giang Nam, rồi cẩn tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng bệ hạ, quân
thần thiên ý hợp nhất, từ nay Nam Việt khởi đầu đời sống mới, tam nhật hạ thần sẽ
xuất thương thuyền, khởi đầu hành trình đi Trung nguyên mua tơ tầm giống, ngũ cốc,
gia súc cho việc nông, ngư, lâm nghiệp đúng hai tháng là hoàn hảo trở về Nam.
Nam Việt Vũ Đế và Hoàng Hạc từ
giã chúc nhau :
― Chúc hiền khanh mã đáo thành
công, hy vọng Nam Việt một cõi sống thịnh vượng, thanh bình, toàn Lạc dân hưởng
vĩnh phúc.
Trong tâm ý của Hoàng Hạc cũng có
những đề phòng bất trắc khi xây dựng đất nuớc, nếu không may kho tàng gặp phải
kẻ gian, nên ông cẩn thận tấu lên Nam Việt Vũ Đế, xuất kim ngân ở kho tàng rất
bí mật, để cho việc khởi đầu được thành công.
Hoàng Hạc tiếp chỉ triều đình chọn
Cần Lĩnh Nam ba nơi Bắc, Trung, Nam làm thân tín, cùng ba thế lực triều đình Ngự
Lâm Quân, Hộ Thành, Cơ Mật Viện.
Sau khi Nam Việt Vũ Đế nghe Hoàng
Hạc cẩn tấu bát sách trong lòng vui như có một bầu trời mới trên đầu.
Hoàng Hạc về Cửu Chân gặp lại
Hoàng Phi Bằng, ông cho Hoàng Phi Bằng biết Nam Việt Vũ Đế đã xuất chỉ dụ thuận
xây dựng đất nước theo ý của Hoàng Phi Bằng. Hoàng Hạc phấn chấn nói :
― Phi Bằng điệt nhi cùng nội tổ
đi xem phong thủy Phong Châu.
Hoàng Phi Bằng hiểu ý :
― Dạ nội tổ, mời nội tổ lên đại hạc,
bốn con hạc đưa hai ông cháu về động Lạc Việt để xuất kim ngân. Hoàng Hạc đề
nghị Hoàng Phi Bằng bảo mật kho tàng :
― Phi Bằng nhi xem lại kho tàng
này có được an toàn chưa ?
Hoàng Phi Bằng bình thản thưa :
― Nội tổ an tâm điệt nhi đã bế hết
những cửa ra vào động, một cửa dưới đáy động, một cửa lên đỉnh núi, ba trạm phục
binh của đại hạc, khó ai vào được kho tàng.
Hoàng Hạc vẫn chưa an tâm hỏi tiếp
:
― Cửa trên vách đỉnh đá nếu Phi Bằng
nhi vào được thì cũng có người khác vào được, điệt nhi nghĩ thế nào ?
― Thưa nội tổ, đúng như nội tổ dạy
bảo, Phi Bằng nhi đã lập đồ trận thì khó ai mà vào được.
Hoàng Hạc vốn tính cẩn trọng, muốn
an lòng hơn nói :
― Phi Bằng nhi cẩn thận như vậy mới
phải chứ, nhưng mà cửa lên đỉnh núi phải tấn thêm một tảng đá thật lớn, còn bốn
tảng đá phổ trên đỉnh núi phải chuyển mặt có chữ vào trong và dùng bốn tảng đá
lớn tấn phía ngoài.
― Thưa nội tổ, về đến động hài
nhi sẽ làm theo ý của nội tổ dạy bảo.
Chiều hôm sau ông cháu về đến động
Lạc Việt, bốn con hạc vào động trước để báo chủ động đã về, trong động vẫn như
mọi ngày. Thời gian qua Hoàng Phi Bằng đã luyện tập thành công thuật ngữ riêng
cho bầy hạc. Trên không trung Hoàng Phi Bằng rời lưng hạc ôm lấy thân Hoàng Hạc
phi thân lên vách đá đứng cheo leo vào cửa động Đông. Lần này Hoàng Hạc không
còn sợ như trước, trái lại ông cảm thấy thoải mái, chân của Hoàng Phi Bằng vừa
chấm xuống phiến đá một tấc trước cửa động là phải phi thân liền để vào cửa
phía trong động.
Hoàng Phi Bằng dụng thủ pháp phi
thân thần tốc, như đại bàng vồ lấy con gà mái dầu và hạ cánh an toàn. Hoàng Hạc
vào trong động khen thầm:– Quả là cháu út của mỗ phi thường.
Tối hôm đó ông cháu họ Hoàng lên
đỉnh núi vào kho tàng xuất kim ngân, đem xuống sảnh đường phân thành sáu bao
đay nhỏ để cho sáu đại hạc chuyển về Cửu Chân. Trong ngày Hoàng Hạc về đến Cửu
Chân liền xuống thương thuyền đi Trung nguyên.
Sáu đại hạc về lại động, có mang
theo một phong thư của Hoàng Hạc nhắc nhở: – Phi Bằng nhi ở lại động hai tháng,
nội tổ sẽ cho hạc đưa tin, khi ấy Phi Bằng nhi mới về Cửu Chân. Hoàng Phi Bằng
vâng lời, thời gian này mỗi buổi sáng chàng chăm sóc bầy hạc, tưới nước vườn
cây ăn trái, trồng cây thuốc hướng dẫn bầy hạc tự trị liệu, chàng bắt thú rừng
làm lương khô dự trữ cho hạc. Buổi trưa chàng luyện võ học trên đỉnh núi, chiều
vào kho tàng đọc lại kinh thư, binh pháp, tối luyện nội công. Chàng đắc ý nhất
là kho tàng, ngũ phổ võ học và bầy hạc.
Thời gian trôi qua mau, hạc đưa
tin nội tổ đã về Cửu Chân, nhân dịp này chàng chuyển về cho Hoàng Hạc năm bao
đay kim ngân.
Năm mươi lăm thương thuyền của Quốc
sư Hoàng Hạc trở về Bách Việt, bốn mươi thuyền cập bến Hổ Môn, mười lăm thuyền
cập bến Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, phân phối đợt đầu đến tận tay người dân,
toàn Lạc dân Nam Việt hoan hô, reo hò vui mừng, tung hô Nam Việt trường cửu
thanh bình, Vũ Đế "Vạn tuế, Vạn tuế".
Hoàng Hạc nhận được năm bao kim
ngân của Hoàng Phi Bằng vừa chuyển về, ba hôm sau ông cho thương thuyền xuất bến
đi Trung nguyên mua tiếp ngũ cốc, gia súc, kim loại.
Chỉ một tháng Nam Việt phất cờ
phát triển ngoài dự liệu. Hoàng triều khám phá tôn tộc Bách Việt có tổng tịch
Bách Việt như :
– Lạc Việt, chín trăm năm mươi
ngàn.
– Âu Việt, bảy trăm năm mươi lăm ngàn.
– Điền Việt, một trăm ba mươi lăm
ngàn.
– Dương Việt, một trăm ngàn.
– Mân Việt, chín mươi tám ngàn.
– Đông Việt, tám mươi ngàn.
– Ngô Việt, hai trăm năm mươi bốn
ngàn.
– Môn-Khmer, năm mươi bốn ngàn.
– Mườn-Việt, bảy mươi ba ngàn.
– Thái Việt, năm mươi ngàn.
– Mèo-Dao, bảy mươi ngàn.
– U Việt, bốn trăm năm mươi ngàn.
– Âu-Lạc, bảy trăm ngàn.
– Miêu tộc, chín mươi ngàn.
– Miêu-Yao, tám mươi ngàn.
– Hẹ, hai trăm ngàn.
– Đa đảo, một trăm ngàn.
Ngoài ra triều đình còn trợ cấp Lạc
dân đang sinh sống tại các tỉnh Trung Nguyên gồm có Lạc Việt (Giang Tô, Sơn
Đông) Mân Việt (Phúc Kiến) U Việt (Chiết Giang) Âu Việt, Thái Việt (Hà Giang)
Ngô Việt, U Việt, Mân Việt (Tứ Xuyên, Trùng Khanh, Thiên Tân) Điền Việt,
Môn-Khmer (Hồ Bắc) Dương Việt (Giang Tây) Ngô Việt (Thiểm Tây) Mườn-Việt,
Mèo-Dao (Triết Giang, Hà Nam) U Việt, Âu-Lạc, Miêu Việt (Bành Lãi hồ) Yao, Hẹ
Việt (Trùng Khánh, Tứ Xuyên, Quế Châu)
Hoàng Hạc đi Trung nguyên lần thứ
hai, ủy nhiệm Hoàng Phi Biên thay mặt ông triệu tập huynh đệ muội và con cháu để
bàn kết quả kế sách cải thiện nhân sinh trong những tháng qua.
Hoàng Phi Biên, Hoàng Phi Bình,
Hoàng Phi Vũ, Hoàng Lữ Giao, Hoàng Lữ Trinh, Hoàng Phi Chỉnh và trên ba mươi
con cháu họ Hoàng đồng tham dự.
Hoàng Phi Biên tuyên bố :
― Những việc làm lâu nay của gia
gia hướng về thịnh vượng Bách Việt, họ nhà ta đồng ý cộng lực vào việc xây dựng
cường thịnh Nam Việt. Đến nay việc làm phó bản hai bộ Thư pháp, Binh pháp đã được
trên hai mươi bộ, đã chuyển đi phân phối các nơi, riêng hai bộ phó bản
"Tuyệt Cao Kỳ Kiếm" và "Phong Tâm Kiếm" họ Hoàng nhà ta vừa
tiếp nhận được do Cần Lĩnh Nam Giang Bắc gửi tặng, họ cho biết làm được sáu
mươi bộ phó bản. Nguyên hai bộ "Tuyệt Cao Kỳ Kiếm" và "Phong Tâm
Kiếm" có phần bổ túc chỉ được lưu truyền trong hạn định. Lý do hai bộ này
đích thân Hoàng Phi Bằng tìm ra, sau đó được bổ túc thêm trọn phần võ học của họ
Hoàng.
Hoàng Phi Bằng còn cho biết huynh
đệ Cần Lĩnh Nam cũng được truyền thụ phần bổ túc võ học họ Hoàng. Phần quan trọng
nữa là ngũ phổ võ học của sư phụ Hoàng Phi Bằng chưa truyền toàn bộ cho các đệ
tử, lý do chưa khám phá nhân kiệt nào có khả năng tiếp thu được ngũ phổ bích
Lĩnh Nam, Hoàng Phi Bằng dự trù hướng dẫn cho quí thúc phụ, quí cô mẫu, quí
huynh đệ con cháu họ Hoàng nếu có đủ tư chất.
Nói chung con cháu nào cũng được
truyền thụ, ông công bố tiếp:– Sáu tháng nữa họ Hoàng có tổ chức tỷ đấu để phân
cấp võ nghiệp.
Về binh khí do Hoàng Phi Bằng đem
về nhà để đúc lại theo mẫu, đến nay đã làm được trên hai ngàn binh khí các loại
khác nhau, phương pháp đúc võ khí nay đã phân phối khắp nơi, để họ tự lập lò
đúc, rèn lấy binh khí, tạo ra phong trào tự phát triển, trao đổi kinh nghiệm kiến
thức về binh khí.
Những binh khí nguyên mẫu như Đại
hổ đao, Phương trường thương, Mảnh trầm kiếm, Thu trượng, Hùng cửu côn, Phán
quan bút, Phi tiêu, Chùy, dụng cụ phóng ám khí, Thanh long đao, Bạch cương mâu,
Long thái kiếm, tất cả mười tám loại binh khí bảo vật có kèm theo phổ từng binh
khí, đã thực hiện đúc theo mẫu binh khí. Sau khi hoàn tất thì Hoàng Phi Bằng
đưa những binh khí ấy về trao lại cho sư phụ, tuy vậy trong họ Hoàng ai là người
sử dụng được những binh khí bảo vật này thì Hoàng Phi Bằng xin sư phụ ban ân,
nhưng phải một lòng thề nguyền bảo vật chỉ vì Bách Việt, quí thúc thúc vẫn sử dụng
kiếm gia bảo họ Hoàng, thúc phụ Hoàng Phi Bình, Hoàng Phi Vũ, Hoàng Phi Khảo,
Hoàng Phi Biên, cô mẫu Hoàng Lữ Giao, Hoàng Lữ Trinh. Từ nay về sau tất tất dưới
sự điều động công việc chỉ bảo của gia gia Hoàng Hạc.
Riêng Hoàng Phi Bằng nguyên chủ
quản Cần Lĩnh Nam Tam Giang không còn lo việc nội ngoại họ Hoàng, tuy nhiên việc
gì trong họ Hoàng cần là có mặt phải về tham gia, những con cháu hiện diện hôm
nay tùy theo sở nguyện tham gia vào những sinh hoạt của họ Hoàng hay tham gia
vào Cần Lĩnh Nam tùy ý.
Đại hội Cần Lĩnh Nam tại thành
Phiên Ngung, cũng là nhân dịp lễ tưởng niệm huynh đệ Cần Lĩnh Nam đã hy sinh
trong trận chiến cương giới Bắc Đông Việt–Hán.
Đại diện Giang Bắc tổng lý Phùng
Hưng trình báo thàng quả hoạt động năm vừa qua :
― Kính thưa Hoàng chủ quản, hiệm
nay nhân sự Giang Bắc cấp điều hành cao nhất có mười tám vị, cấp thượng có mười
chín vị, cấp trung có một trăm mười hai vị, cấp hạ có ba trăm bốn mươi tám vị,
cấp chúng đường thủy có sáu trăm mười ba vị, cấp chúng đường bộ có trên ngàn vị.
Đại diện Giang Nam tổng lý Hoàng
Phi Biên hiệu "Long Thanh" trình bày :
― Thưa quí anh hùng, Giang Nam cấp
điều hành có bảy vị, cấp thượng có mười hai vị, cấp trung có mười tám vị, cấp hạ
có một trăm tám vị, cấp chúng đường thủy có sáu trăm ba mươi ba vị, cấp chúng
đường bộ có bảy trăm mười vị.
Đại diện Giang Trung tổng lý Vũ
Thư Minh trình bày :
― Thưa quí anh hùng, Giang Trung
cấp điều hành có bảy vị, cấp thượng có tám mươi bốn vị, cấp trung có trăm mười
hai vị, cấp hạ có hai trăm vị, cấp chúng đường thủy một ngàn bảy trăm vị, cấp đường
bộ có hai ngàn chín tram vị.
Tài sản Cần Lĩnh Nam Tam Giang tự
trị, sinh hoạt, liên lạc giữa Tam Giang như con thoi, nhờ liên kết đường thủy
có ghe thuyền, trên bộ có tuấn mã.
Hoàng Phi Bằng tiếp nhận trình
báo của Tam Giang, thấu hiểu sinh hoạt của mỗi Giang khác nhau về địa lý cũng
như tổ chức tự trị nội bộ và tùy thuộc vào trình độ kiến thức của mưu sĩ cũng
như tinh thần trách nhiệm, tuy Tam Giang đồng nhất trên căn bản tổ chức Cần
Lĩnh Nam, nhưng võ nghiệp cao thấp khác nhau là do hoàn cảnh sống và tư chất tạo
thành, chàng nói :
― Hiện nay Cần Lĩnh Nam hoạt động
trên ba khu vực phía Bắc có Cô trượng Phùng Hưng gọi là Giang Bắc. Thúc thúc Vũ
Thư Minh hoạt động miền Trung Nam Việt gọi là Giang Trung. Thúc bá Hoàng Phi
Biên hoạt động Giang Nam. Về mặt tổ chức, điều hành, phát triển của Tam Giang rất
phù hợp nhu cầu từng vùng, nhưng tất cả đồng thủ tín trao đổi võ học, hội ý
kinh nghiệm giao dịch, đời sống Cần Lĩnh Nam theo tinh thần thủ túc.
Ngày nay Nam Việt Vũ Đế công nhận
Cần Lĩnh Nam là lực lượng Hộ thành thứ hai, ngoài ra còn có khả năng bảo vệ Nam
Việt cho nên tất cả Cần Lĩnh Nam phải luyện tập binh mã, có như vậy mới gánh
vác trách nhiệm sự tồn vong của Nam Việt.
Theo tại hạ thấy, tổng kết hiện
nay phía Cần Lĩnh Nam Giang Nam thực lực còn yếu, đối với tình hình chủ lực xây
dựng Nam Việt cần phải phát động chiêu hiền đãi sĩ để có một lực lượng tương đồng
Cần Lĩnh Nam Giang Bác và Giang Trung.
Hoàng Phi Bằng dừng lại suy nghĩ
về kho tàng. Cần xuất ra cung cấp phương tiện cho Giang Nam. Chàng nói tiếp:– Về
phương tiện hoạt động của Cần Lĩnh Nam Tam Giang, tại hạ thấy duy có Giang Nam
còn yếu mọi mặt, điều này tại hạ nhận trách nhiệm cung cấp phương tiện vật chất,
còn về đào tạo nhân lực các cấp thì Cần Lĩnh Nam Giang Nam tự phát huy, ở buổi
đầu này có nhiều vất vả, nhưng trong tương lai phải là một lực lượng bảo vệ mặt
Nam Nam Việt. Tại hạ xin mời quí thúc bá, thúc thúc, cô trượng, huynh đệ có ý
kiến gì thêm không ?
Phùng Hưng đứng lên phát biểu :
― Thưa chủ quản (Hoàng Phi Bằng)
trong thời gian này thập bác anh hùng phía Giang Bắc chia làm hai, bổ túc cho
Giang Nam.
Hoàng Phi Bằng suy nghĩ một hồi,
mới đáp :
― Cô trượng đưa ra đề nghị này
cũng hợp lý, nhưng Giang Nam còn nhiều thời gian chiêu hiền đãi sĩ, chưa cần
thiết bổ túc, làm như vậy sẽ bị đình trệ một phần tổ chức của Giang Bắc.
Hiện nay Quốc sư (Hoàng Hạc) ở
Trung Nguyên đang trên đường về nước, hy vọng sẽ có cuộc hội ý khác để phát triển
Giang Nam.
Tại hạ có điều quan trọng muốn nhắc
nhở, ngày tháng như mắc cửi, hàng hàng, lớp lớp người đời thấm thoát trôi qua,
tìm được người nhân tánh xuất chúng khó lắm ! Từ đây Cần Lĩnh Nam chú ý khai trừ
và không kết nạp người nhân tánh tham lam, trong tâm của họ chứa tứ độc tính,
như Tiền, tình, quyền, danh lợi, những kẻ này thắng làm vua, thua làm giặc. Tại
hạ xưa nay xem thường tứ thứ vinh thân và những kẻ tham sống sợ chết, anh hùng
thời nay ngoài văn võ song toàn còn phải định nghĩa kiếp sống đạo lý làm người
hữu ích cho xã tắc.
Tiếng vỗ tay vang cả sảnh đường.
Hoàng Phi Bằng nói tiếp:– Tại hạ
xin tạm biệt quí thúc bá, thúc thúc, cô trượng cùng toàn thể quí huynh đệ, chúc
đại hội Cần Lĩnh Nam viên thành như ý, chúc sức khỏe, bình an, tạm biệt .
Tiếng vỗ tay vang cả sảnh đường
huynh đệ Cần Lĩnh Nam tiển Hoàng Phi Bằng ra về. Không bao lâu Cần Lĩnh Nam
Giang Nam hoạt động phát triển mạnh, có những đột phá mới, anh hùng phía Nam
gia nhập Cần Lĩnh Nam, nhờ có con cháu ngũ họ, như Lê Đằng đầu họ, Đào Tứ Cường,
Tô Thành, Bàng Lân, Trần Tam Điệp. Thành lập được cấp điều hành gồm có Hoàng Phi
Biên, Hoàng Phi Chỉnh, Lê Đằng, Đào Tứ Cường, Tô Thành, Bàng Lân, Trần Tam Điệp,
Lê Cù, Đào Tứ Bảo, Tô Không, Bàng Chí, nữ hiệp Trần Thủy Hoa.
Cấp thượng có đến năm mươi bảy vị,
cấp trung có tám mươi ba vị, cấp hạ có một trăm sáu mươi vị, cấp chúng đường thủy
trên ba ngàn vị, đường bộ trên sáu ngàn. Trang trại đường thủy rải khắp sông
ngòi có hai trăm chín mươi bốn trại, mặt biển Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam có bảy
mươi trại và hai mươi chiến thuyền.
Hoàng Phi Bằng xuất kho tàng hổ
trợ Giang Nam lập trang trại trên bộ và đường thủy, xem đây là thành lũy sống
còn phía Nam Nam Việt, cũng là nơi tổ chức tập hợp Cần Lĩnh Nam sau này.
Địa lý rất quan trọng, núi rừng,
sông ngòi mượn sông Kỳ Cùng (nước chảy ngược) làm thủy lộ trong nội địa, hợp
lưu sông Ba Thín bắt nguốn từ vùng núi cao thuộc Quế Lâm đổ vào bờ phải sông Kỳ
Cùng thành hợp lưu với sông Tây-giang, sông Bằng-giang chảy qua Tượng Quận đến
Quế Lâm. Sông Lô chảy ra vịnh Nhật Lệ thuộc Giao Chỉ, địa danh này đặt bốn trại
Cần Lĩnh Nam Giang Nam. Sông Lam chảy vào hợp lưu sông Gianh đồng chảy ra cửa vịnh
Giang, địa danh này đặt bảy trại Cần Lĩnh Nam. Sông Lương đặt năm trại, sông Mã
đặt mười hai trại, sông Lô đặt mười chín trại, sông Nồng Hồ đặt bảy trại, sông
Chảy tại đây đặt mười ba trại, sông Lũ đặt sáu trại, sông Bạch Đằng thành một hợp
lưu ra cửa Biển Đông tại đây đặt hai mươi trại.
Đặc biệt địa thế sông ngòi của (Lục
đầu giang) gồm có sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Thầy,
sông Lục chảy ra vịnh Nam Giao Chỉ, địa danh trọng yếu này Cần Lĩnh Nam Giang
Nam đặt trên bốn mươi trại, sông Kinh Môn chảy ra biển cửa Cấm đặt mười trại,
sông Văn Út ra cửa biển Lạch Trai đặt chín trại, sông Rạng chảy ra cửa biển Văn
Úc đặt tám trại, sông Đá Bạch (Bạch Đằng giang) hợp lưu với sông Kinh Môn
nguyên là cửa sông vùng lầy rộng lớn gọi là cửa biển Nam Triệu đặt mười một trại.
Ngoài ra còn các sông nhánh khác
như sông Lai Vu đặt ba trại, sông Thủy Nguyên đặt tám trại, sông Đa Độ, sông
Tam Bạc đặt sáu trại. Đoạn đầu nguồn Lễ Xã Giang từ dãy Ngụy Sơn vào hợp lưu
sông Nguyên Giang đến từ Lào vào hợp lưu sông Thao (sông Hồng) chảy ra cửa biển
Ba Lạt nơi này đặt mười sáu trại.
Từ biên giới tỉnh Tượng Quận, Quế
Lâm có các con sông như sông Đà, Nậm Na, Lô, Nho Quế, Mễ Phúc, Nam Khê chảy vào Giao Chỉ cũng được đặt
trên bốn mươi trại, còn có những phụ lưu khác như sông Đà, Lô nối vào phụ lưu
sông Gầm, sông Hồng chia ra hai nguồn tả ngạn là sông Đuống, sông Lục nối vào Lạch
Giang, sông Phủ Lý. Sông Na Pa (Chi Lăng) chảy trong máng trũng hồ Mai Sao cũng
đặt sáu mươi trại.
Vùng cửa biển miền Giao Chỉ phong
phú như cửa biển Nam Hải, Long Biên, Ba Lạt, Nam Triệu, Văn Úc, Cửa Cấm, Biển
Đông, Nhật Lệ, Cửu Chân, Nhật Nam, Cửa Tùng được xem là huyết mạch phát triển Cần
Lĩnh Nam Giang Nam.
Hoàng Phi Bằng trong tay đã có
kho tàng cộng vào trí lự thiên phú, chàng thiếu niên rộng tay tận dụng hết
thiên nhiên sông núi biển cả, mở ra mạch máu lưu thông chân trời Giao Chỉ, Cửu
Chân, Nhật Nam như một thân thể miền Nam Nam Việt đầy đủ tứ chi của quê hương xứ
sở. Bảo vệ được mạch máu chảy cuộn khúc vào bầu nhiệt huyết, sông núi đất cùng
người hợp nhất.
Chàng thiếu niên háo hức quyết định
táo bạo không chờ thời cơ hứa hẹn. Huynh, tỷ, đệ Hoàng Phi Bằng nhất là Hoàng Lữ
Thư nay trở thành nữ hiệp kiệt tài thủy chiến và binh bộ.
Cần Lĩnh Nam Giang Nam xem đây là
một phép lạ, vùng lên bước vào hoạt động khắp miền Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật
Nam. Sức mạnh này có được là nhờ Hoàng Phi Bằng âm thầm trợ lực, cộng với bầu
nhiệt huyết của những anh hùng Giang Nam, những gì thành công được thường nhờ
vào tuổi thanh xuân suy tư và bộc phát hành động đúng thời cơ.
Với một phong trào Lạc dân mới của
Giang Nam đã thực sự lớn mạnh, tổng cộng ghe thuyền trên sông có sáu trăm, trên
biển có tám mươi ba thuyền bầu, tất cả thiết kế theo mẫu hai đáy.
Từ lúc Hoàng Hạc có kho tàng
trong tay thực hiện được mười sáu chuyến đi Trung Nguyên, mỗi chuyến đi năm
mươi sáu thuyền bầu cập bến khắp cửa biển Trung Nguyên, chuyến đi nào cũng kết
thúc thành công, việc làm của Hoàng Hạc dâng hiến vì ước mơ đất nước phồn thịnh,
ông tạo ra thời kỳ nhân giống, thế hệ trẻ ngày nay khẩn định tôn tộc Bách Việt phải
hào hùng.
Hoàng Hạc mua nguyên liệu, sản phẩm
chuyển về nước, phân phối cho toàn Lạc dân từ thành Phiên Ngung cho đến tận Giang
Bắc xuống Giang Nam. Chính Nam Việt Vũ Đế cũng phải khen: "– Tôn tộc Bách
Việt được ân sủng thượng thiên hậu thiên, nay Lạc dân nắm bắt được cơ hội thì sợ
gì lòng thịnh vượng không thành. Người quân binh giữ bề cõi an ninh thái bình, người
mưu sĩ tạo phú cường muôn dân an lạc".
Ngày nay toàn Lạc dân phấn chấn đứng
trước thành Phiên Ngung, với tiếng hò reo "Nam Việt Vũ Đế vạn tuế, vạn tuế"
"Tôn tộc Bách Việt muôn năm".
Cũng như trước phủ Phó Nam Việt
Vương Phùng Nam, Lạc dân Giao Chỉ tụ hội ăn mừng họ reo hò, tung hô "Bách
Việt thanh bình trường cửu" "Nam Việt muôn nam" "Hoàng thượng
vạn tuế, vạn tuế" "Nam Việt Vương muôn năm".
Những ngày hội kỳ phong hóa Việt
xem như một cung quản về đêm rất huy hoàng tại Giang Nam, đẹp nhất là ngày hội
Hùng Vương và ngày vinh danh anh hùng tộc Bách Việt. Người Hán cũng phải ghen
ghét thầm và tự hỏi phép lạ nào để hổ rồng Nam Việt vùng dậy một phương trời ?
Vì ghen ghét thầm ấy mà Hoàng đế
nhà Hán Lữ Trí (Hoàng hậu Lưu Bang, Hán Cao Hậu) xuất chỉ cấm toàn dân Trung
Nguyên bán súc vật giống cái cho Nam Việt. Lữ Trí xuất chỉ sau một năm thì đã
muộn màn vì Nam Việt đã dự trữ và dư thừa nhu cầu.
Hoàng Hạc còn truyên bố súc vật
giống cái, giá một mua mười, bởi vậy dù có ngàn chiếu chỉ của Lữ Trí cũng vô dụng
thôi, ông mượn lời để mỉa mai Lữ Trí: "– Lữ Trí hữu danh Hậu Trí".
Hoàng Hạc đã biết trước cho nên
mua tất cả súc vật giống cái khỏe, còn giống đực thì chọn lọc khỏe tốt nhưng
mua rất ít. Hán Hậu Lữ Trí vội vã xuất chỉ lần thứ hai cấm toàn dân Hán bán ngũ
kim như vàng, bạc, thép, đồng, chì, thau, kẽm cho Nam Việt. Những chiếu chỉ của
Lữ Trí không còn giá trị nữa, bởi ngũ kim mà Nam Việt đã mua lâu nay và lưu trữ
bí mật từ Bắc xuống Nam.
Thời gian này tứ phương, mười hướng
các nước lân bang, đem ngũ kim vào Nam Việt trao đổi sản phẩm, Nam Việt mở rộng
cánh cửa giao thương đất nước phồn thịnh, tự nó tạo ra sức hút của ngũ kim đổ
vào. Có lần Vũ Đế ban chỉ dụ: "– Phép màu phồn thịnh do trí tuệ và sức sống
của Lạc dân tạo ra". Bát sách cải thiện nhân sinh là do toàn lực Lạc dân
Nam Việt tạo thành, đời sống thịnh vượng nhờ biết vận dụng phép nông, lâm, ngư
nghiệp, kinh doanh v.v… đó là thành quả của sức người.
Toàn Lạc dân nay dư ăn dư để,
không còn chạy vạy lo sáng ăn chiều, chạy chiều thiếu tối. Ngày no ba buổi
không còn lo âu đời sống thiếu thốn, nơi nào Lạc dân cũng lập kỳ hội mùa để tạ
ơn thần Nông, cha trời, mẹ đất và đa tạ Vũ Đế. Ba năm liên tiếp trúng mùa nhờ
gieo, trồng, nuôi giống đúng thời vụ, khí hậu cây nào mùa ấy, kho lẫm dự trữ
lương thực ụ đống cao to đụng mái nhà, sản phẩm ngư nghiệp, chăn nuôi, chế biến
phơi khô làm mắm v.v... Nhiều sản phẩm mới cũng được bày bán và trao đổi khắp
nơi.
Nam Việt Vũ Đế hạ chỉ quân quan địa
phương mua sản phẩm của Lạc dân với giá cao, giao trách nhiệm cho Ngự Lâm Quân,
Hộ Thành, Cần Lĩnh Nam giã dạng dân mua bán sản phẩm để giám sát giá cả thị trường.
Cơ Mật Viện giám sát quan lại địa
phương. Tất cả sản phẩm do Cần Lĩnh Nam vận chuyển qua đường sông, lấy cửa biển
làm điểm hẹn của kho chứa, xuất cảng sản phẩm, sinh hoạt tại các trại giao dịch
lưu chuyển ở cửa biển tấp nập ngày cũng như đêm.
Những đoàn thương thuyền của
Phiên Ngung, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Kim Biên, Nam Hải thi nhau buôn bán
sản phẩm ngũ cốc, gia súc, quí kim, vải lụa với các nước lân bang.
Lúc này thương truyền lân bang đến
Nam Việt bán những sản phẩm như thép, gỗ, châu báu, kim ngân, có cả tuấn mã từ
phía Bắc Trung Nguyên. Lạc dân bán ra những sản phẩm lương thực, gia súc, mua
vào những quý kim, châu báu, vật dụng gia đình v.v... cung cầu của Lạc dân tăng
trữ cao. Nam Việt trổi dậy những đô thị kinh tế sầm uất, các nước lân bang gọi
Nam Việt là thị trường Bách Việt của Đông Nam.
Những năm sau này ở Trung Nguyên
có đại dịch đồng khô cỏ cháy, mùa màng mất trắng liên tiếp hai năm, cảnh vật
điêu tàn thê lương, nhiều tỉnh thành nhà vắng vô chủ, người vật biến mất để lại
cảnh hoang sơ, người Hán chết đói vô số kể, tạo ra nhiều đảng cướp, trái lại
cũng có thiểu số không hề biết sự lầm than của dân, còn tệ hại hơn tại Trường
An nhà Hán cổ xúy những quân đoàn thu thuế còn giữ hơn hổ, quan trường tham ô
hơn bầy chó sói. Càng tham ô thì kiện tụng càng nhiều, đó là trường sinh sát của
quan kiện tụng, như kiến thấy mỡ.
Cao Hậu Lữ Trí hạ chỉ sai sứ thần
đến Nam Việt cầu kiến xin Vũ Đế cấp lương thực. Nam Việt Vũ Đế chấp thuận tặng
người Hán lần thứ nhất trên ba mươi vạn đấu ngũ cốc (mỗi đấu nghìn hộc lúa) lần
thứ nhì trên hai mươi vạn đấu ngũ cốc. Hán Cao Hậu Lữ Trí một lần nữa sai sứ thần
đến Nam Việt xin trợ cấp hạt giống ngũ cốc. Nam Việt Vũ Đế chấp thuận tặng trên
mười vạn đấu ngũ cốc và ba muôn giống gia súc.
Nam Việt thịnh vượng tệ đoan xã hội
cũng biến mất, những việc làm nào cũng thành công, giải quyết được tất cả mà
ngày xưa cho là khó. Việc nông, lâm, ngư nghiệp, thương trường chính là chìa
khóa để lân bang học người Nam Việt. Đã thành công thì những việc khác cũng kéo
đến tấp nập, như sách có câu "Nhà đền chủ tốt khách tới thường" .
Những việc chưa hề nghĩ đến nay
cũng vùng dậy như ở các cửa biển lập sở đóng ghe thuyền. Những đô thị thi nhau
lập Đạo Đức Đường để đào tạo hiền tài, võ đường đào tại binh sĩ, lò đúc binh
khí, vật dụng gia đình. Lần đầu tiên Nam Việt lập trường thi bắng cung tên, các
loại bẩy, chế tạo ám khí như người phương Bắc thường dùng.
Tập Lạc dân phương thức trao đổi
vần công, mua bán hàng hóa, lập kho lẫm dự trữ lương thảo, giao dịch trong nước
bằng đường thủy, đường bộ từ Tượng Quận, Trường Sa, Quế Lâm, Nam Hải, Giao Chỉ,
Cửu Chân, Nhật Ham đến Hải Nam.
Thủ công nghiệp cũng phát triển
khắp nơi, xây dựng nhiều thành trì mới như Tượng Quận, Quế Lâm, Trường Sa, Nam
Hải, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hải Nam, tu bổ thành Phiên Ngung, tu bổ
thành trì Phong Châu, Cửu Chân, Nhật Nam, cùng lúc xây lũy đắp thành mới mục
đích bảo vệ Nam Việt, phía Nam trên những trục lộ quan trọng, yếu huyệt như lũy
sông Hồng, lũy sông Kỳ Cùng, lũy Ba Thín, lũy Dao, lũy Tây Giang, lũy Cổ Lâu,
lũy Hoa Việt, lũy Ty Phù, lũy Kim Lặc, lũy Cổ Sậm, lũy Liễu Cát, lũy La Phù,
ngoài ra còn xây thành Vĩnh An, thành Yên Quảng.
Ước nguyện của Vũ Đế cũng được thực
hiện, xây vòng thành thứ ba cho Phiên Ngung, hào sâu, kiên cố. Nam Việt giao hảo
các nước lân bang, như nhà Hán cùng các nước phía Nam, nhất là lập lại triều cống
lân bang, theo lệ giao hảo thân thiện. Lúc này quan binh, quân trường hưởng bổng
lộc triều đình nhiều hơn trước.
Thủ đô Phiên Ngung trung tâm kinh
tế và văn hóa của Nam Việt, thành Phiên Ngung vốn đã đẹp nhờ địa lý thiên
nhiên, nay cộng sự phồn thịnh trở thành quê hương của những loài hoa, cảnh vật
nên thơ bốn mùa rực rỡ.
Phiên Ngung thành được người Hán
phong mỹ danh đất thần kinh Giang Nam, có cửa biển Hổ Môn trung tâm kinh tế,
thương mại lớn nhất Nam Việt, từ cửa Hổ Môn khách bộ hành chỉ mất hai canh là đến
thành Phiên Ngung, đẹp nhất cảnh thiên nhiên hai bên lề đường, có cánh đồng hoa
trải rộng như thảm chiếu hoa muôn màu, bốn mùa hoa trải dài từ biên giới tỉnh
Quế Lâm đến Nam Hải. Hoa thơm dịu phơi phới, đưa khách si tình lạc lối mê mẩn
vào cõi thiên thai, không một ai từ chối các loài hoa thành Phiên Ngung, vì nó
là một tác phẩm bất hủ của tác giả thiên nhiên. Khách si đắm đuối theo hoa thưởng
thức hết kỳ ảo bốn mùa, là đã tròn tuổi đời, mà vẫn còn luyến tiếc hoa đồng nội.
Đất Giao Chỉ cũng không kém sức
vùng dậy, thi đua phục hồi cố đô Phong Châu, cố đô Loa Thành, văn hiến Hùng
Vương trở thành nền tảng đạo học Nam Việt.
Phong Châu là trung tâm thứ hai về
kinh tế, thương mại và thủ công nghiệp được Vũ Đế tặng mỹ danh Giang Nam Phù Đổng.
Địa danh Giang Nam gồm có Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam miền đất mở rộng trù
phú quan trọng thứ hai của Nam Việt.
Thành Phiên Ngung tiêu biểu của
quốc gia Nam Việt, gọi là Giang Bắc gồm các tỉnh như Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận,
Trường Sa và Hải Nam mỗi tỉnh được triều đình phong Vương trị chánh.
Giang Nam–Bắc thi đua phát triển
trong ba năm đất nước Nam Việt trù phú như có phép lạ. Giang Nam xem là vùng đất
mới phát triển, tuy đã có Phong Châu, Loa Thành, Cửu Chân, Nhật Nam nhưng dân
cư lưa thưa không bằng Tượng Quận, Trường Sa, Quế Lâm, Hải Nam và Nam Hải.
Ngày nay Nam Việt thịnh vượng người
dân xuống Giang Nam tìm đất sống mới, nhất là vùng đất rộng có nhiều hứa hẹn,
khí hậu ôn hòa, thuận mùa sản xuất, sông ngoài nhiều, bờ biển thuận cho ngư
nghiệp và thủy mạch cho thương thuyền.
Lạc dân Giang Bắc thi nhau dời cư
xuống Giang Nam lập nghiệp, bỗng nhiên tự nó tập hợp được trăm họ tôn tộc Bách
Việt, sản sinh trí sĩ, anh hùng hào kiệt. Giang Nam có được ngày nay cũng do
lòng người biến hóa hữu thời.
Một tập hợp Bách Việt lần thứ hai
mà chưa ai suy nghĩ đến, tự nó có từ lúc đại hội anh hùng Bách Việt tại thành Phiên
Ngung. Một cấu tạo thiên nhiên đã định ngày hẹn trở về tộc Bách Việt, từ Trung
Nguyên xuôi Nam hướng về quê hương xứ sở, họ mang theo những tinh hoa như kỹ
thuật thuộc da, kinh doanh, thương mại, thủ công nghiệp, giao dịch, lưu hành
ngân kim.
Họ là nhân tố bồi đắp vào đời sống
văn hóa Giang Nam. Họ là những quyết định hưng thịnh cho Giao Chỉ, Cửu Chân và
Nhật Nam.
Họ trở về trong lòng Bách Việt
như một khối kết tinh tình tự dân tộc, quê hương xứ sở giàu mạnh không cần
"Dụ ngôn nguồn cội".
Đất nước này có sự hiện hữu của họ
là một động lực thi thố tinh thần tập hợp Bách Việt, cũng nhằm chuẩn bị đối đầu
với người Hán trong tương lai. Các nước lân bang thường gọi "Thời đại Bách
Việt Phương Nam".
Nhân tài thi nhau xuất hiện, văn
nhân trí sĩ trẻ, võ hùng mã cường, nhị Giang Bắc–Nam cho phép họ được quyền quyết
định vận mệnh đất nước, đời sống cá nhân làm chủ cuộc sống tự nhiên của con người.
Bách Việt thực hiện được mục chứng
tinh thần tôn tộc "Dân vì Dân", với một lý trí mới không hề biết sợ
người Hán vì "Thượng ứng thiên mệnh, hạ ứng nhơn tâm", do thiên hạ bá
tánh mà có.
Vua trọng nhất mẫu đồng bào. Dân
trọng hoàng thượng chí tôn thiên hạ. Nam Việt còn ngoại lệ cơ may xây dựng
giang sơn cẩm tú và đem sự hoan hỷ đến cho Lạc dân, bằng ý chí quân thần, đúng như
câu: "Khói củi sự sống của bá tánh, khói núi mở giang sơn vì thiên hạ".
Không ngờ Hoàng Hạc qui tiên, tin
loan truyền một đêm mệt mỏi Người vĩnh viễn ra đi, hưởng thọ chín mươi chín
canh, linh cữu quàn tại tư gia họ Hoàng thuộc tỉnh Cửu Chân, sau tam nhật chuyển
về thành Phiên Ngung. Nam Việt Vũ Đế đứng ra làm chủ lễ an táng đại anh hùng
Bách Việt. Mộ bia vinh danh, "Quốc sư chí minh Hoàng triều Nam Việt thất
thập niên, hiền thần quốc hiếu, Hoàng Hạc vương thần lưu danh chi mộ".
Nam Việt Vũ Đế xuống chỉ thành
Phiên Ngung và thành Giao Chỉ treo cờ rũ, triều đình cử hành tang lễ thất nhật.
Quân quan từ Cửu phẩm đến bát phẩm phải chầu lễ cho đến khi an vị mới thành.
Hoàng Phi Vũ được tín nhiệm đứng
đầu họ Hoàng tại Giao Chỉ. Cả họ cùng một lời thề trước linh đài Hoàng Hạc:
"– Họ Hoàng nay tiếp nối hành trình tiên phụ để lại, một lòng vì sơn hà xã
tắc Nam Việt. Quyết chí cả lập đức, lập công bồi đắp thanh bình hưng Nam Việt,
phù trợ đất nước sinh tồn, nuôi dưỡng sinh lực nhằm phá tan những cản trở phát
triển, bài trừ quan lại tham ô, hoạn quan suy nhược, triệt tiêu những cửa quan
cậy quyền, áp chế Lạc dân, chấp nhận đứng trên mọi thử thách".
Từ ngày đất nước hết chiến tranh,
Nam Việt thanh bình, hưng thịnh hơn năm năm, toàn dân lúc nào cũng vinh danh Vũ
Đế "Vạn tuế, vạn tuế" còn quốc sư Hoàng Hạc người dân vinh danh
"Anh hùng Bách Việt" Lạc dân thương tiếc, cùng lúc suy nghĩ về tương
lai. Ai là đệ nhị Hoàng Hạc, Hoàng thượng Vũ Đế sẽ bổ nhiệm ai lo cho dân ấm no
?
Trong những ngày tang lễ Hoàng
Phi Bằng khóc cho tiên tổ nhiều nhất, chàng khả nghi để ý tìm nguyên nhân tiên
tổ qua đời.
Đôi lúc Hoàng Phi Bằng tự hỏi:– Người
khoẻ mạnh khi chết da mặt phải tái, óp lại đôi chút ít, nhưng hiện thời tiên tổ
như người đang ngủ, thi thể cũng như da mặt vẫn đầy đặn, hồng hào.
Nếu người có nhãn lực thâm hậu
như Hoàng Phi Bằng mới khám phá trong thi thể có biến chứng không bình thường.
Người của họ Hoàng cho đây là sự ra đi của Hoàng Hạc trong tư thế bình an !
Trái lại Hoàng Phi Bằng nhìn tiên tổ qui tiên với một gốc độ khác ! Chàng giỏi
về mạch lý, y dược cho nên có ý tưởng khác người.
Hoàng Phi Bằng suy nghĩ thầm:– Chính
nội tổ đã bị kẻ ám hại, bây giờ muốn cứu nội tổ cũng đã muộn màn. Chàng tiếp tục
tự nhủ:– Giải pháp hay nhất là âm thầm tìm địch thủ, tuy họ trong bóng tối cũng
có ngày lộ ra dưới ánh sáng mặt trời. Chàng tự hòi tiếp:– Họ dùng thủ pháp nào
để hạ độc tiên tổ, những dược liệu gì ở trong thi thể, có lẽ thủ phạm không phải
là người xa lạ. Dĩ nhiên đây là cao thủ không phải kẻ tầm thường .
Hoàng Phi Bằng quyết định khai
quan nghiệm thi, lấy một mẩu thịt trên vai tiên tổ ngâm vào rượu nồng độ mạnh,
rồi theo liên đài về thành Phiên Ngung. Ngày cũng như đêm Hoàng Phi Bằng nằm dưới
liên đài theo tục lệ báo hiếu, nhờ vậy Hoàng Phi Bằng khám phá trong liên đài
có nước vàng thấm qua khe liên đài gỗ Cẩm–lai. Chàng kết luận chính người trong
nhà sát hại tiên tổ.
Ngự Lâm Quân canh gác trước cửa
phòng, nhân tiện một lần nữa Hoàng Phi Bằng khai quan nghiệm thi, lấy mẫu nước
vàng trong liên đài. Đôi tay chàng vận khí một thành công lực xuất chiêu thức
"Cân vũ thành" liên đài bật nắp không vang tiếng động.
Chàng thấy thi thể của tiên tổ
teo lại chỉ còn da bọc xương, thi thể đã bị rã rữa từ từ, nước màu vàng đã thấm
hết vào vải bọc thi thể, rỉ ra ngoài phần nhỏ cho nên khó ai phát hiện.
Chàng nói thầm:– Mới mấy ngày
thôi mà thân thể tiên tổ đã biến hóa nhanh như vậy rồi ư ? Nước mắt của
chàng tủa ra như suối, chàng cẩn thận đậy nắp liên đài trở lại, cảm thấy bần thần,
vội uống vào một viên "Hoàng liên thảo" ngồi xuống định thần, khi mở
mắt ra mới biết chất độc trong liên đài cực mạnh. Chàng tự hiểu đây là một chất
độc chế biến tinh vi.
Đến ngày tang sự viên mãn mọi người
trở về sinh hoạt trong không gian đất nước thanh bình, chẳng ai suy nghĩ về một
nhân vật kỳ tài bị chết bí ẩn.
Tin Hoàng Hạc qui tiên, Hán Cao Hậu
Lữ Trí gửi sứ thần qua Nam Việt để phân ưu, đất nước Nam Việt buồn vì mất một kỳ
tài, trái lại nhà Hán xem đây là một tin vui nhất, lý do đơn giản người Trung
Nguyên thời nào cũng muốn áp phục tôn tộc Bách Việt, như nhà Tần nhị quốc Tây–Đông
cũng bao lần áp chế, mục đích của họ là tiêu diệt tôn tộc Bách Việt, ý đồ ấy họ
không đạt được bởi Bách Việt thời nào cũng sản sinh trí sĩ, anh hùng.
Thời nay người Hán đã đồng hóa được
các dân tộc khác ở hướng Tây, Bắc, Đông Trung Nguyên. Bách Việt may mắn vượt ra
khỏi tầm tay tham vọng của nhà Hán, người Hán cho rằng trên thế giang này chỉ
có họ là dân tộc văn minh nhất, còn tất cả những dân tộc khác trong vùng Châu-á
đều là man rợ.
Nhà Hán vẫn xem tôn tộc Bách Việt
trong tầm mắt có vựa ngũ cốc trù phú, cho nên lòng khao khát thèm muốn của người
Hán dâng cao, lúc nào họ cũng chuẩn bị đem binh lực để xâm chiếm Nam Việt, họ
mãi mơ ngồi chờ thừa dịp là tràng quân vào cướp bóc tài sản cho bằng được, người
Hán khác nào cái bồ tham vô tận từ xưa nay.
Tôn tộc Bách Việt hiểu thấu tính
sài lang của người Hán, thực sự người Hán không phải là một dân tộc thông minh,
nhưng họ lại giỏi gió tanh máu lạnh, lòng tham không bờ bến, họ là loài động vật
có tính chuyên nghiệp cướp, chỉ biết đi thôn tính những nước lân bang, người
Hán là con trăn ngủ dưới lớp lá khô chờ quốc gia nào suy vong thì tức khắc thừa
cơ nhảy vào đồng hóa, vì lý lẽ tồn vong Nam Việt phải vũ trang binh hùng tướng
mạnh, không thể hiếu hòa trước một con sài lang Hán đói, ăn thịch người không
nhả xương. Sứ thần nhà Hán lần này đến Nam Việt thăm dò người kế tập Hoàng Hạc
là ai, phân ưu chỉ là một cái cớ, trong đôi mắt nhà Hán đang lùng tìm miến mồi
Nam Việt, cuối cùng sứ thần nhà Hán, họ Bàng tên Từ Không đi về tay không.
Cuối tháng chín miền Nam Giao Chỉ
nắng mau trưa, mưa mau tối, chiều xẩm gió thổi mạnh "vù vù" nước sông
chảy xiết, ghe thuyền làng Xá trên sông Hồng ngưng mọi sinh hoạt. Hoàng Phi Bằng
cưỡi hạc đi qua, thấy từ xa xa trên dòng sông kéo theo một người trôi nổi bồng
bềnh, đầu hụp lên, hụp xuống, cứ thế mà trôi tít mãi, xem ra người dưới nước đã
kiệt sức, không còn ép được thân thể vào dòng nước để trôi vào bờ.
Hoàng Phi Bằng thấy cảnh tượng
người này còn có thể cứu sống, chàng vội chuyển bộ pháp rời khỏi lưng đại hạc phi
thân trên mặt nước xuất chiêu "Thủy sơn kiển", gọi là Khảm hiểm trở.
Cấn dưới nước, trên thì có núi cao chặn đường tiến thủ, dưới chân vực sâu, đã dừng
lại không tiến về phía trước. Nhờ vậy cứu được người lên bờ, đem nạn nhân vào
gian nhà lá cũ bên bề sông, chàng búng vào nạn nhân một viên "Đơn bạch
cúc" người thiếu niên tỉnh lại.
Tự dưng chàng nghe tiếng chân của
một tốp độ tám người lạ mặt chạy phía sau gian nhà lá, trong số người này có một
thiếu niên đang chạy phía trước, vừa đến trước cửa nhà nằm lăn ra thở phì phèo,
thuận tay chàng búng luôn viên "Đơn bạch cúc", số người còn lại chàng
xuất một quyền "Thảo Hưng Cấn" trong quyền Lĩnh Nam, kình lực nội
công này khiến họ phải dừng chân lại trước cửa nhà.
Hoàng Phi Bằng lên tiếng có ý
không cho họ vào trong nhà nói :
― Xin quí các hạ không được vào
nhà, còn thiếu niên này tại hạ xin tiếp nhận.
Một trong tám người lạ mặt nói :
― Được không vào nhà thì ở ngoài,
xem các hạ có thoát đi đâu chứ, nơi này là đường cùng của trần giang "ha
hà... "
Thiếu niên lạ mặt tỉnh lại mở mắt
ra, nói nhỏ :
― Tại hạ, xin đa tạ ân công cứu mạng.
Hoàng Phi Bằng không cần báo đáp
ơn nghĩa, cũng không trả lời mà chỉ suy nghĩ về thiếu niên mới vớt từ dưới sông
lên:– Muốn cứu sống thiếu niên này thì cần một viên "Thủy sa hầu",
chàng búng liền vào trước ngực, từ trong bụng nạn nhân nước trào ra "ào
ào", chàng nhặt lên một viên sỏi, búng xuống dưới đôi chân đang có tảng đá
nặng hơn ba mươi cân, tức khắc tảng đá tan rã hơn trăm mảnh vụn. Thiếu niên được
thoát nạn quỳ xuống đất, hai tay chấp lại xin một lạy tạ ơn ân công.
Hoàng Phi Bằng vội vã đỡ tay lên.
Người thiếu niên ngơ ngác nói :
― Tại hạ xin đa tạ ân công cứu mạng
sống, ơn này trời đất chứng lòng, tại hạ nguyện kết cỏ ngậm vành. Một tiếng thở
dài rồi phân bua:– Tại hạ không biết có tội gì, đang ngủ trưa, bị sáu người bịt
mặt ám hại trói mèo cả hai tay chân, dưới chân còn lại buộc thêm một tảng đá, rồi
quăng xuống nước thử hỏi làm sao sống được. May thay còn trôi nổi được vài
canh, nhờ dây gai gặp nước nở ra, hai tay mới tuột khỏi chân, nhưng còn tảng đá
dưới chân vô tình cứ kéo thân thể xuống, sức lực đã cạn kiệt, vẫn phải nương
theo dòng nước hụp lên, hụp xuống cố ngấc đầu lên tìm hy vọng sống trong hơi thở
cuối cùng, nhưng không may nước lại chảy quá xiết, lúc này xem ra hoàn toàn thất
vọng.
Người thiếu niên đang nằm trước cửa
nhà cũng kể về thân phận của mình :
― Tại hạ, sinh ra từ bao giờ,
không cha mẹ, quê quán cũng không, sống bằng hành khất độ nhật từ khi nào cũng
không biết, khi đi về chòi tranh này thì bị bọn cướp chặng đường thế là cắm đầu
mà chạy.
Hoàng Phi Bằng xem mạch biết thiếu
niên này sức khỏe sung mãn, không vì đói khát, nếu căn cứ vào bào phục, cũng đủ
chứng mình thiếu niên này là con nhà quan hay thương gia, với sức khỏe và da dẻ
thân tròn trịa này đương nhiên còn thân nhân. Chàng quan sát rất kỷ thấy trong
chòi trang tuy đơn sơ nhưng mà những vật dụng sinh hoạt rất gía trị, đối với một
nông dân hay người hành khất, thì hẳn nhiên không phải là hành khất bình thường.
Hoàng Phi Bằng đánh giá thiếu niên này có lòng gian trá. Tuy vậy chàng không ngại
cứu người trên hết, tay chàng lấy bánh nướng mời thiếu niên ăn.
Còn về thiếu niên trôi trên dòng
sông do người đời hãm hại, đang đứng nghiêm chỉnh, hai tay để trước ngực thi lễ
nói :
― Thưa ân công, thân thế của tại
hạ họ Đinh tên Anh Thi, mười bốn tuổi quê quán Phong Châu, nay xin theo hầu hạ
ân công cho trọn kiếp sinh.
Hoàng Phi Bằng đưa tay ra phất nhẹ
lời từ chối :
― Tại hạ sống không nơi ổn định,
cũng không muốn nhận ân nghĩa, hôm nay tình cờ gặp các hạ ở đây, cũng hy vọng
có ngày tái ngộ.
Đinh Anh Thi khẳng khái nói :
― Thưa ân công, nếu không được ý
nguyện thì tại hạ quyết định thà chết tại đây, làm người mà không biết ân nghĩa
thì nói chi chí khí nam nhi, sống như vậy có ích gì ?
Hoàng Phi Bằng thấy lòng người chân
thực, cảm thông hoàn cảnh ôn tồn :
― Thôi được, tại hạ tạm nhận kết
nghĩa với các hạ, như vậy được chứ ?
Đinh Anh Thi vui mừng nói :
― Tiểu đệ được kết nghĩa cùng ân
công tuy rằng không hợp lễ, nhưng ít nhất trọn đạo tình người, xin đại huynh chọn
ngày lành tháng tốt định phần cho tiểu đệ.
Hoàng Phi Bằng gật đầu tỏ lòng
hoan hỷ tiếp nhận, chàng xưng danh tánh của mình :
― Tại hạ họ Hoàng tên Phi Bằng,
đi qua đây gặp lúc cứu người hoạn nạn thì có gì đâu mà ân với nghĩa, nếu tại hạ
không cứu thì cũng có người khác cứu, các hạ chưa phải là người vắn số, hôm nay
huynh kết nghĩa với đệ cũng là khởi điểm thân thích sau này, hy vọng cùng nhau
sống hết tình thủ túc, vậy huynh cùng đệ thi lễ nhá ?
― Dạ đại huynh ân công.
Thiếu niên nằm bên cửa nghe họ
tên của Hoàng Phi Bằng vội vã lom khom đứng lên cũng giới thiệu danh tánh.
― Thưa nhị vị huynh đài, tại hạ
tuy không họ nhưng có tên là Độ Thiếu, xin đồng kết nghĩa.
Hoàng Phi Bằng xem mạch Độ Thiếu
đã hồ nghi, thấy gân cốt ít nhất có hai năm luyện võ học, thân thể béo khỏe
không phải là kẻ hành khất, da thịt trắng trẻo không có một dấu vết nào chân
tay lam lũ.
Chàng thở dài, suy nghĩ thầm: – Tuy
đã phân biệt cả hai người bạn trẻ này khác hoàn cảnh. Đinh Anh Thi là thực của
vô tình, còn một Độ Thiếu là cố ý giả. Chàng có ý riêng tiếp nhận bằng cử chỉ gật
đầu, nhưng không bằng lời, cả hai thiếu niên chưa hề biết nhau đồng quỳ đa tạ
Hoàng Phi Bằng.
Độ Thiếu đứng thẳng người thưa :
― Thưa đại huynh, tiểu nhân tên Độ
Thiếu nghĩa là thiếu ăn thiếu mặc, do người đời đặt cho, sống vô gia cư, căn
chòi lá này là gia tài duy nhất của gia gia mẫu thân để lại.
Hoàng Phi Bằng nhân diện Độ Thiếu
cố ý che mắt dối người. Chàng đề lòng thầm:– Đúng là loài thú sau này nó sẽ
quay lưng lại chăm sóc riêng cho bộ da của nó. Tuy nhận diện được đối phương,
nhưng chàng vẫn lấy lễ đối lòng Độ Thiếu, chàng tự nhủ thầm:– Dù đây là cây đèn
lu mờ nhưng đến vời mình sẽ sáng .
Chàng cười kín đáo, miệng khen :
― Tuy tiểu đệ không họ, nhưng tên
rất có ý nghĩa, hy vọng mai này tên Độ Thiếu đổi thành Độ Sinh.
Đinh Anh Thi kể lại trong sự chết
có sự sống của riêng mình cho Hoàng Phi Bằng nghe :
― Thưa đại huynh, lúc tiểu đệ tuyệt
vọng nhất, thân thể đã thực sự thả lỏng, chỉ chờ chìm lỉm xuống nước là chết
theo dòng sông, bỗng đâu có một luồng khí linh thiêng kéo lên khỏi mặt nước,
khi tỉnh lại mới biết đại huynh cứu sống, đó là sự thực nếu không có đại huynh
thì không thể còn ai cứu sống được, mạng này còn ở cõi đời, ắt lòng chẳng không
bao giờ quên ân công .
Hoàng Phi Bằng thừa hiểu lòng người,
khi gặp hoạn nạn thì vái trời xin đất, đến lúc bình an không còn nhớ gì hết,
tuy thường đời là vậy nhưng thấy người hoạn nạn thì phải cứu, không chừng trong
hai người sẽ có một người tốt, chàng trấn an :
― Tại hạ xin quí đệ quên ơn nghĩa
đi, có như thế tình người mới thấy thoải mái hơn, đừng cột mình vào ơn nghĩa sẽ
thêm khổ.
Đinh Anh Thi nghe lời dẫn giải rất
mới lạ, nghĩ thầm:– Thời nay người đức hạnh hiếm có, còn kẻ độc ác thì đếm quá nhiều,
ở nơi nào cũng thấy. Nay vốn mình vô thân thuộc, gia gia thì lưu lạc nơi nào
không biết, còn mẫu thân bị hãm hiếp nhưng cự tuyệt đem thân thủ tiết để rồi tự
vận, nay mẫu thân đã qua đời, chỉ mình ta thân cô, thế độc mà cũng tránh không
khỏi tử thần. May được cứu sống cũng không phải là kẻ thừa thế gian, thôi thì
mình tiếp tục sống.
Đinh Anh Thi lấy một hơi dài nén
sâu vào lòng bụng, thở ra như để xả hết nổi lòng u uất, chàng nói :
― Thưa đại huynh, tiểu đệ sống
như thế này là nhờ người cứu, bây giờ người từ chối thì xem như không còn đất sống,
bởi tiểu đệ sống vô gia cư cả năm nay, gia gia bị người ta bách hại không biết
lưu lạc phương nào, còn mẫu thân bị người quyền thế hãm hiếp đã tự vận, gia sản
bị người cướp sạch, nay tiểu đệ cũng bị người ta trói thả trôi sông, nếu không
được theo hầu ân công thì tiểu đệ mượn dòng sông Hồng này làm phương tiện siêu
thoát lần thứ hai.
Hoàng Phi Bằng nghe lời nói có chất
tính chân thành, không biết phải từ chối bằng cách nào, chàng đành nhận lời kết
nghĩa bên đường, nhưng để lòng hậu ý nói :
― Tại hạ năm nay tuổi thập ngũ,
tiếp nhận kết nghĩa huynh đệ với Đinh Anh Thi và Độ Thiếu.
Đinh Anh Thi vui mừng quỳ xuống
bái một bái. Hoàng Phi Bằng cùng động tác, riêng Độ Thiếu cũng bắt chước những
động tác rồi làm theo.
Đinh Anh Thi thay mặt Độ Thiếu
thưa :
― Thưa, chúng đệ gặp đại huynh
như trời cao mưa thấm đất, được kết nghĩa với người chí khí là phúc họ Đinh và
Độ Thiếu, tuy không cha không mẹ nhưng xem đại huynh như quyền huynh thế phụ,
nhị tiểu đệ xin một lòng trọn dạ giữ chữ hiếu hiền, không thay đổi hai lòng.
Hoàng thiên tại thượng, hoàng thổ tại hạ làm chứng.
Hoàng Phi Bằng nhận thấy có thể Độ
Thiếu là kẻ hai long, chàng chấp nhận tương cảnh, chứ không thể tương ái nói :
― Thôi được bây giờ tại hạ đưa nhị
hiền đệ về nơi tạm trú, sống với người thân như một gia đình.
Đinh Anh Thi vui mừng xúc động ra
nước mắt, không biết nói gì hơn bằng một lạy tạ ơn.
Hoàng Phi Bằng thấy vậy để lòng
riêng nói :
― Từ đây về sau nhị hiền Đinh, Độ
đệ đừng nói đến tạ ơn nữa, chỉ cần một lần là đủ rồi .
Chàng ra lệnh ba con hạc bay về đông
Nam Khê Sơn, chàng cặp bên hông phải Đinh Anh Thi, bên trái Độ Thiếu rồi phi
thân biến vào không gian, cả hai không dám mở mắt, gió thổi
"vù...vù..." rát da mặt.
Những người canh gác bên ngoài căn
nhà lá không hay biết gì về ba thiếu niên biến mất vào lúc nào, họ ngơ ngác tìm
không thấy, rồi bỏ đi.
Hoàng Phi Bằng cho biết :
― Tam khắc nữa là đến nơi, chúng ta đi qua hướng
Bắc, theo lộ trình này là vào núi.
Thực ra
vào động Nam Khê Sơn đi theo hướng Tây–Bắc, người chưa quen đi trong rừng già
đưng nhiên không biết phương hướng, tâm lý người đi theo miễn làm sao đến nơi
là an toàn. Hoàng Phi Bằng ngờ vực Độ Thiếu cho nên đề phòng trước, chàng hướng
dẫn đi hướng Bắc rồi đổi lộ trình qua hướng Tây–Bắc.
Cả ba huynh đệ Hoàng Phi Bằng về đến động gặp
Trần Bình Thành, Đào Phụng Thương, Đào Phụng Hiệp, Đào Phụng Anh, Đào Phụng
Châu, Đào Phụng Anh Tuấn, Đào Trần Mẫn Trâm.
Hoàng Phi Bằng kể lại từng chi tiết :
― Trên đường đi về động, tại hạ làm quen hai hiền
đệ này đang gặp nạn mới đưa về động.
Chàng giới thiệu Đinh Anh Thi và Độ Thiếu, cả
nhà cùng nhau chia xẻ cảnh đời cùng khổ.
Trần Bình Thành đứng trước Hoàng Phi Bằng thưa
:
― Thưa sư phụ, đệ tử nghĩ rằng Đinh, Độ sư thúc
sẽ là thân nhân trong gia đình mình, còn ngày sau điểm võ học cho Đinh, Độ sư
thúc thì không khó.
Hoàng Phi Bằng hiểu tâm tư của Trần Bình Thành,
đương nhiên lệnh sư phụ thì phải tuân lệnh, tuy hai thiếu niên này may được sư
phụ kết nghĩa cũng có thể tương lai không phải là kẻ tầm thường.
Trần Bình Thành thưa tiếp:– Thưa sư phụ an tâm,
mọi việc rồi sẽ tốt, nay Đinh, Độ sư thúc vận dụng hết khả năng luyện tập võ học,
hy vọng tương lai quí sư thúc thành tài như lấy vật trong túi áo, võ học ở
trong động này do sư phụ truyền thụ thì tất cả xem như đồng môn.
Đinh Anh Thi ngạc nhiên suy nghĩ:– Trần Bình
Thành thân cốt to lớn, khỏe mạnh, nói về canh niên cũng hơn đại huynh Hoàng Phi
Bằng cả hai giáp, thế mà xưng hô một hai vẫn là sư phụ, sư thúc, trên thực tế
võ học của mình có một miếng nào để đáng gọi là sư thúc! Mỗ quá ngại ngùng
nhưng không biết phải nói lời nào cho đúng, mỗ chỉ đáng làm đệ tử của đại huynh
mà thôi !
Đinh Anh Thi trình bày cảm nghĩ của mình cho tất
cả người trong động nghe :
― Thưa Trần đại huynh, tại hạ không biết phải
xưng hô như thế nào cho phải đạo nghĩa, vì vốn võ nghiệp và canh niên của tại hạ
chưa đủ sức để quét lá động này, vậy xin đại huynh cho tại hạ kết nghĩa cùng
quí Đào đệ.
Trần Bình Thành miệng cười trả lời :
― Thưa Đinh sư thúc, quí Đào sư thúc cũng là
người trên của đệ tử, ở đây chỉ có đệ tử vai vế nhỏ nhất.
Đinh Anh Thi khó hiểu về giang hồ rồi tự suy:–
Chi bằng ở lâu mới biết sự, không cần giải thích, hôm nay đành chấp nhận như thế,
rồi nói :
― Thì ra cuộc đời trên giang hồ này có những
chuyện bất ngờ không thể biết trước được.
Hoàng Phi Bằng hiểu nổi lòng của Đinh Anh Thi vẫn
còn ngơ ngác, chàng ôn tồn :
― Đinh, Độ đệ ở đây không đến nổi phải thiếu thốn,
chỉ cần quí hiền đệ luyện tập võ học mỗi ngày, khi ngu huynh trở lại sẽ có nhiều
việc để hiền đệ hiểu đời sống ở đây. Hoàng Phi Bằng nói tiếp:– Trần đệ tử chuẩn
bị đón tiếp tất cả sư thúc sẽ về đây nay mai.
Trần Bình Thành cúi đầu vâng lời sư phụ, Hoàng
Phi Bằng cáo biệt, phi thân biến mất, chàng cùng đại hạc bay về động Lạc Việt, về
đến động chàng đi thẳng xuống suối có dòng nước lạnh để lưu tồn mẫu thịt và máu
chứa trong chai lấy từ thi thể của Hoàng Hạc, nhằm giữ được lâu ngày. Chàng chuẩn
bị thời gian tìm hiểu chất độc, năm ngày miệt mài ôn lại "Dược Giới Lĩnh Nam ", chàng khám phá được công thức
chế biến và giải độc, tìm được độc liệu cần thiết gồm có: Chín con rết mun, sống
trên bảy năm tuổi, lấy vảy bỏ thịt. Mười hai lưỡi rắn rung chuông, sống trên mười
hai năm tuổi, lấy lưỡi bỏ thịt. Công thức bào chế: Vảy rết, lưởi rắn, chu bì
con đỉa, hắc ngọc đoạn, mã tiền, chu dịch, rượu một phần tư lít nồng độ mạnh, ướp
với thủy ngân, chôn dưới dòng nước lạnh, trên một tháng mới công hiệu.
Lấy trái lười ươi chín quết nhừ, vo tròn thành
viên nhỏ bằng hạt bắp, bỏ vào hủ chất độc, viên lười ươi sẽ tự động hút chất độc
vào, lấy ra phơi khô ba nắng, sau cùng bọc một lớp bột gạo, thế là thành phẩm gọi
là "Thiên thu sa". Còn màu sắc của "Thiên thu sa" tùy ở người
sử dụng, chỉ cần búng vào đối thủ là lấy được mạng sống, nạn nhân chết như ngủ,
lấy độc trị độc chỉ có "Hạc Chu Thảo" mới giải được "Thiên thu
sa", những tiên đơn khác đều vô hiệu, thế mới gọi là "Thiên thu"
cõi chết vĩnh viễn nghìn năm không ai biết. Hoàng Phi Bằng an tâm tự hứa chính
mình tìm thủ phạm ra tay hại tiên tổ.
Thời gian còn lại chàng ra hiệu đại hạc cùng đi
về hướng dãy Gia Phong Sơn thuộc thị trấn Chung Du, Giao Chỉ mục đích xem lại địa
thế và chuẩn bị sửa lại động. Đến lược về động Lạc Việt chàng và đại hạc ngủ đến
chiều, khi thức giấc cho đại hạc dùng bữa, uống nước no nê chuẩn bị đầu thời Dậu
lên đường, bỗng từ xa vọng lại tiếng đàn cung thương, giốc, chủy, vũ và âm từ
như Hò, xự, xang, xề, cống, liếu. Âm giai rất trẻ đậm nét man mác quê hương
thanh tú, mở rộng tâm cảm một nhà Lĩnh Nam, trong ca từ có tiếng gọi về quê cha
đất tổ, lời ca mênh mông âm pháp.
Hoàng Phi Bằng cảm xúc, chân bước đến gần tìm
hiểu, mới biết chính đôi thiếu niên này là tác giả tấu nhạc khúc, đôi bạn trai
gái này xem ra rất tình tự, họ yêu nhau trong tâm tư cùng một hoài bão.
Lần đầu tiên chàng chú ý nghe từng lời ca và âm
sắc nhạc, chàng đứng tựa lưng vào gốc cây cổ thụ chiêm ngưỡng rồi tự lòng:– Chính
mình đã từng sử dụng âm pháp để thu hút tình người, quả nhiên âm nhạc có chất
liệu của tạo hóa, bởi thế mới cảm hóa và thôi thúc được Thiếu Quân.
Nỗi lòng kéo chàng đến gần rồi lấy quyết định:–
Mỗ phải kết nghĩa với tâm hồn trong sáng này, chính họ làm cho mỗ chảy theo
lòng suối liên miên.
Đôi thiếu niên dừng lời ca, tiếng đàn, cắt đứt
hẳn suy tư của Hoàng Phi Bằng.
Chàng nhạc sĩ trẻ ngạc nhiên hỏi :
― Thưa đại huynh, lời và nhạc có khó nghe không
?
Hoàng Phi Bằng hài lòng câu hỏi, rồi trả lời :
― Tại hạ đến đây để chiêm nguỡng âm pháp, nhạc
từ, có thể nói trong bản nhạc này ẩn hiện tình tự tôn tộc Bách Việt, chính âm
hưởng này thôi thúc tại hạ đến với núi sông. Tại hạ mạo muội muốn kết thân cùng
nhị vị có được không ?
Người nhạc sĩ trẻ suy nghĩ, quả thực tiếng nhạc,
lời ca, đi tìm tương đắc, tương tư. Âm nhạc đến với mỗi người qua tư duy, đây
là lần đầu tiên có một gã qua đường cảm nhận được mình với Lệ Thanh, cũng là đồng
tâm huyết đến với nhau, chàng nhạc trẻ thưa :
― Thưa đại huynh, tại hạ sáng tác hôm qua một
tác phẩm mới, xin mời muội Lệ Thanh trình bày ca khúc "Quê Hương Ta
Đó" tặng đại huynh vào buổi sơ giao :
Bầu trời quê ta nắng ấm sáng tươi
Tiếng hát líu lo chim gọi yêu cuc đời
Cuc tình hôm nay thêm vui tiếng cười
Và người yêu dấu cùng ta chung với người
Quê hương đó người tình đó
Và đất nước làng quê đây luỹ tre
Đây gió núi trăng bên suối
Ngồi vây quanh lửa ấm quê hương
Cười rn ràng chung vai vang tiếng ca
Sánh bước bước đi quên là kiếp tha hương
Đời vì mai sau vươn lên với người
Dù đời vẫn khó lòng ta không bước lui
Nhịp đập hôm nay tim ta réo vang
Cất tiếng hát ca vang rn xóm thôn làng
Kìa người phương xa chân bước ngút ngàn
Về quê hương có mẹ cha vui với người.
Chàng nhạc sĩ cao hứng hỏi :
― Đại huynh nghe ca khúc này thế nào ?
Hoàng Phi Bằng đắc ý, cười rồi đáp :
― Về nhạc phổ tại hạ chỉ hiểu phần nhỏ, khi
nghe thường chú ý nhạc và lời có quấn quít vào nhau không, chính ở điểm này
chuyên chở được ý của tác giả, còn ca từ nữa nó đậm âm sắc hay không chỉ một từ
thêm hay bớt là đủ trở thành ca khúc lưu danh.
Đôi bạn nghệ sĩ, tương lai sáng ngời khó lường
trước, có cái thế cao thổ, hoài bảo lớn của anh hùng, đố ai biết được là hào kiệt
chứa biết bao hận thù đã qua trải. Quí hữu nắm sức mạnh của âm nhạc làm ý nguyện
dâng hiến cuộc đời cho dân tộc, đó là âm nhạc không gian sống thực, nhưng cũng
có kẻ tầm thường lợi dụng âm nhạc tưởng tượng, rồi vẻ vào tim một chân dung đẹp,
bởi thế mới có loại âm nhạc bả đậu !
Nói về nhạc khúc Quê Hương Ta Đó, trong âm sắc
có gió lùa vào suy tư, trọng tình không trọng âm, trọng nghĩa không trọng khúc,
âm điệu liên miên bất tận, như nước chảy không ngừng, âm chính và phụ âm không
cách, không sai một khoản cung bật nào, thủ pháp hòa một, ngũ âm hiệp nhất, tùy
ý đáo cung đàn.
Còn ca từ giống như một bức tranh cố hương rất
đẹp, có đồng nội hương thơm thanh bình, một quê hương tình yêu hạnh phúc, nói
lên chí khí làm trai thời loạn, bốn bề náo động cờ bay phất phới, hứa ngày về
xây dựng quê hương, đúng là một khúc nhạc hay bao la vạn trượng.
Lệ Thanh thấy Hoàng Phi Bằng giải thích âm nhạc
rất là lưu loát, luận âm nhạc không sai, nhân cao hứng nàng hỏi :
― Thưa đại huynh có biết cây đàn tranh này ( ba
mươi chín dây cung ) truyền thuyết thế nào không ạ ?
― Tại hạ chưa đọc qua cuốn phổ nào nói về truyền
thuyết của cây đàn này !
Lệ Thanh vốn sống trong gia đình doanh gia nhạc
cụ và đã học qua âm nhạc với các danh sư, cho nên luận về âm nhạc nhất là nhạc
cụ, nàng đứng đầu nữ giới, nàng nói :
― Thưa Hoàng huynh, đàn tranh này có vào thời
Thuấn. Xưa kia gia đình nọ có hai chị em gái thích âm nhạc, nhưng trong nhà chỉ
có một cây đàn tranh ( ba mươi chín dây cung ) rồi một ngày, hai chị em dành giật
cây đàn đó để chơi riêng, họ không chịu nhường nhịn nhau. Mỗi người giật qua đẩy
lại, kéo tới kéo lui, kết quả cây đàn đứt ra làm hai đoạn, người chị được đoạn
( mười ba dây cung ) người em được đoạn ( mười sáu dây cung ).
Từ đó thế giang có thêm hai nhạc khí đàn tranh
mới. Mười sáu dây cung và ba mười dây cung.
Hoàng Phi Bằng khen :
― Muội Lệ Thanh thông thái lắm, nhờ ngày xưa có
hai chị em nhà nọ, mà thế giang ngày nay có đến ba loại đàn tranh, đương nhiên
mỗi loại có âm sắc tuyệt hảo của nó, truyền thuyết đàn tranh được ghi vào sử âm
nhạc thời Thuấn lưu mãi đến nay. Cảm ơn kiến thức của muội cho huynh mở rộng tầm
mắt, do đó sách có câu: "Đi một quãng đàng học một sàng khôn" .
Xuân Giao hướng đôi mắt lên nhìn Hoàng Phi Bằng,
đắc ý đứng lên cười "ha hà" :
― Đúng là tri kỷ, chúng tại hạ xin kết nghĩa với
đại huynh nhá ?
Hoàng Phi Bằng cảm thấy lòng rộn ràng tự hỏi:–Xưa
nay mình thường kết nghĩa trong giới võ học, hôm nay quả là một thú vị, lấy thi
ca kết nghĩa võ học cũng là một việc nên làm nói :
― Tri kỷ kết nghĩa tri kỷ, tốt lắm âm nhạc cũng
là một võ học, nếu biết sử dụng sẽ cho chúng ta những chiêu thức tuyệt kỷ. Tại
hạ họ Hoàng tên Phi Bằng còn bách nhật đúng mười bảy canh, người Lạc Việt, hiện
sống Cửu Chân đồng ý kết nghĩa với huynh, tỷ.
Hai người nhạc sĩ trẻ không ngần ngại cũng giới
thiệu :
― Tại hạ họ Xuân tên Giao mười sáu canh dư bách
nhật. Muội họ Lệ tên Thanh mười sáu canh tròn, quê quán Thanh Mai thuộc tỉnh
Trường Sa.
Hôm nay được kết nghĩa với đại huynh cũng là một
vinh dự lớn.
Hoàng Phi Bằng ngỏ lời mời Xuân và Lệ về núi
Nam Khê Sơn :
― Nhân dịp này ngu huynh muốn mời Xuân đệ, Lệ
muội về Nam Khê Sơn cùng chung luận âm nhạc và võ học nhé ?
Xuân Giao chấp thuận :
― Thưa đại huynh nơi nào có anh hùng trừ gian
diệt bạo, cứu nhân, độ khó thì nơi đó có đệ và Lệ muội.
Hoàng Phi Bằng cười nói :
― Tốt lắm huynh đệ cùng thực hiện tam Thi nhé
như thi Việt đạo, thi Ân đức, thi Cứu nhân.
Chính trong nhạc cũng có tam Thi, Nhân khí anh
hùng xuất hiện, Tâm khí lộ diện thi ca, Đức khí không bỏ nhân tình. Hoàng Phi
nói tiếp:– Huynh mời đệ, muội đến cây cổ thụ ngoài kia rồi cùng về Nam Khê Sơn.
Cả ba lên đường bằng đại hạc, Xuân, Lệ lần đầu
tiên được cưỡi đại hạc, trong lòng phơi phới, tay nghe gió thổi vi vu, nhạc
trong gió, tiếng ca trong mây.
Trên không gian Hoàng Phi Bằng cất lên khúc
Lĩnh Nam Ca có ý tặng Xuân đệ, Lệ muội. Lời ca vừa chấm dứt, đại hạc đã bay xuống
động Nam Khê Sơn.
Cùng lúc Xuân Giao hỏi :
― Thưa đại huynh, đệ cùng Lệ muội tâm đắc ca
khúc Lĩnh Nam Ca. Đúng như khí hùng ca, một liều thuốc thúc đẩy mỗi cuộc sống
vươn lên.
Xuân, Lệ không ngờ ở rừng núi mà cũng có người
bạn đường yêu âm nhạc, lòng cảm kích vô cùng. Vào đến động tất cả thập lục tú
đón chào hai bằng hữu mới đến.
Hoàng Phi Bằng giới thiệu Xuân, Lệ cho huynh đệ
trong động cùng nhau kết nghĩa :
― Quí vị thân mến từ hôm nay trong động Nam Khê
Sơn có nhị thập nhất tú nhân, tại hạ xin giới thiệu thứ tự huynh tỳ đệ muội như
sau. Đại huynh Trịnh Đình Thông trưởng nam của cô trượng Trịnh Đình Thao, tỷ tỷ
Hoàng Lữ Thư, Hoàng Phi Bằng, Chu Thông, Chu Thiện, Chu Hào, Xuân Giao, Lệ
Thanh. Đinh Anh Thi, Đào Phụng Thương, Đào Phụng Hiệp, Đào Phụng Anh, Đào Phụng
Châu, Độ Thiếu, riêng Đào Phụng Anh Tuấn, Đào Trần Mẫn Trâm gọi tại hạ là nghĩa
phụ, đặc biệt còn bốn huynh tỷ đệ muội còn ở ngoài động chưa về đây, sẽ giới
thiệu sau.
Hiện nay trong động có người đã gặp và chưa hề
biết tên họ của bốn người ở ngoài động đang sống ở đâu, như Lý Bình Trung, Trần
Kiều Oanh, Trịnh Trường, Quách Tuyết Băng.
Hoàng Phi Bằng nhờ đệ tử Trần Bình Thành đến
Thương Nhân Bang trao giản biên cho tổ phụ Đào–Trần.
Nội dung:– Kính gửi tổ phụ. Phi Bằng nhi xin sử
dụng động Nam Khê Sơn làm nơi sinh sống cho nhị thập nhất tú, hy vọng tổ phụ đồng
ý.
Ký tên Hoàng Phi Bằng.
Trần Bình Thành nhận tiếp giản biên của Thương
Nhân Bang của Đào–Trần phúc đáp:– Phi Bằng nhi mến. Tổ phụ đã tiếp nhận giản
biên vội hồi âm đến hiền nhi. Tổ phụ quyết định tặng hiền nhi động Nam Khê Sơn.
Kể từ đây và mãi mãi hiền nhi làm chủ quyền động, chúc sức khỏe quí thiếu hiệp.
Ký tên Đào–Trần.
Ngày tháng trôi qua Tam Thanh Kiếm vẫn chưa rút
ra khỏi vỏ để phát huy khả năng của nó. Nhân dịp Hoàng Phi Bằng về thành Phiên
Ngung, một hôm Trịnh Trường hỏi :
― Thưa đại huynh, đệ lo mãi việc ngoài đời quên
lửng, nay xin đại huynh cho phép "Tam Thanh Kiếm" xuất hiện.
Hoàng Phi Bằng nhớ lại liền đáp :
― Như thế Lý đại huynh, Trịnh đệ chuẩn bị thế
nào để làm lễ tái xuất "Tam Thanh Kiếm"
Lý Bình Trung không ngại đề nghị thẳng với
Hoàng Phi Bằng :
― Mời Hoàng đệ tiếp nhận "Ngọc Thanh kiếm".
Hoàng Phi Bằng cười nói :
― Sao Lý huynh, Trịnh đệ không lựa người khác để
trao "Ngọc Thanh kiếm".
Trịnh Trường xét thấy không có ai đủ khả năng
tiếp nhận "Ngọc Thanh kiếm" ngoài Hoàng Phi Bằng nói :
― Thưa Hoàng đại huynh, tuy đã có nhị thập nhất
tú nhân, nhưng không ai có khả năng để trao "Ngọc Thanh kiếm" cả.
Hoàng Phi Bằng cười ồ, rồi nói :
― Trịnh đệ nói vậy là chưa am tường trong nội bộ,
hiện nay có người có thể trao được "Ngọc Thanh kiếm" khi vào tay người
nào thì người ấy phải tự xét mình để thi hành, vã lại một khi đã kết nghĩa
huynh đệ rồi thì đừng coi thường lẫn nhau, mình phải tôn trọng tất cả.
Lý Bình Trung ái ngại trao kiếm cho người khác,
hai nữa chính "Ngọc Thanh kiếm" do Hoàng Phi Bằng lấy về, nay không
tiếp nhận thì phải có nhân vật thứ tư nói :
― Hoàng hiền đệ, Trịnh đệ theo ngu huynh suy
nghĩ "Ngọc Thanh kiếm" nên trao cho tỷ tỷ Hoàng Lữ Thư là hay nhất.
Trịnh Trường chưa hề có ý nghĩ trao kiếm cho
Hoàng Lữu Thư vì rất ái ngại nói :
― Trao kiếm cho tỷ tỷ Lữ Thư thì đệ không an
tâm vì ngại tính tình ngạnh bướng, lỡ mà đi ngược lại thì khác nào La Đức sống
lại, thế là chết cả đám.
Lý Bình Trung hiểu được ý của Trịnh Trường cười
"há hà" :
― Theo ngu huynh thấy tỷ tỷ tính tình có nghịch
ngợm, nhưng trong nghịch chứa đựng tình thương, nghịch của lý trí nhân đạo, chứ
không phải nghịch ác như La Đức, Trịnh hiền đệ ở trong nhà mà không biết tính của
tỷ tỷ như thế nào hay sao ?
Trịnh Trường "ồ..." thì ra là thế,
đáp :
― Ngu đệ vì lo ngại quá cho nên bị che lý trí không
hiểu thấu, nhờ hiền huynh giải thích mới tỏ tường, đa tạ đại huynh.
Lý Bình Trung xoay qua hỏi Hoàng Phi Bằng :
― Hoàng hiền đệ làm lễ bái kiếm ở đây được
không ?
Hoàng Phi Bằng nói đùa :
― Cuối cùng rồi cũng nhận bà la sát tiếp
"Ngọc Thanh kiếm" huynh đệ không sợ bà ấy ư ?
Trịnh Trường, Lý Bình Trung đồng cười :
― Kiếm đã chọn mặt gửi vàng, thì chúng ngu
huynh đệ không còn sợ gí nữa vì ngày trước không có ai trị được La Đức, còn
ngày nay có Hoàng đại huynh trị nghịch kiếm, mười bà la sát chúng đệ cũng há sợ
hay sao.
Hoàng Phi Bằng cười "hà hà" lên tiếng
:
― Cuối cùng rồi cũng đem mỗ ra làm nhân chứng,
thôi được hẹn ba ngày nữa quí vị theo mỗ lên động Gia Phong Sơn để làm lễ bái
kiếm, nhưng phải hỏi ý của tỷ tỷ trước rồi mới hành lễ. Còn về sinh hoạt ở động
Nam Khê Sơn do tỷ tỷ Lữ Thư chưởng quản, còn kinh doanh Phiên Ngung thành do Lý
huynh, Trần Tỷ, Trịnh đệ và muội Quách Tuyết Băng chưởng quản.
Truyền tin này lại cho tỷ Lữ Thư bảo từ nay mọi
người trong động phải ra sức luyện tập mỗi ngày, xuất hết năng lực đạt đến trăm
thành nội ngoại công lực, bảy ngày sau tại hạ trở lại, kiểm tra năng lực, xin
chào tạm biệt.
Hoàng Phi Bằng phi thân lên đại hạc bay thẳng
hướng Nam, về động Lạc Việt chàng sống với bầy đại hạc, nghiên cứu bộ võ học
trên ngũ giác đài, chàng trầm mặc với sơn động, thường đời không quấy nhiễu,
tinh thần thoải mái, thời gian rảnh tập luyện tiếp "Bát Quái Lĩnh
Nam" chỉ trong một ngày là đã hoàn tất bộ võ học mới, bộ pháp của chàng
nay tinh diệu hơn trước.
Bảy mươi hai chiêu thức vừa luyện tập hoàn chỉnh
chàng ứng dụng ngay, chân xoay nhẹ xuất bộ pháp, phi thân ra khỏi động, nhân tiện
kiểm tra lại nội ngoại lực. Chân chàng vừa đáp xuống đất là xuất Nhất chiêu
"Thủy sơn kiển" chiêu thức này vị trí của Khảm hiểm trở trong Cấn dưới
là nước và núi, tính của núi là đậu, núi cao chặn đường tiến thủ, dưới chân là
vực sâu. Chàng nhận ra mọi vật dừng lại không thể tiến đến gần chàng.
Chàng xuất Nhị "Bát thuần cấn" chiêu
Càn là đậu dừng lại, Cấn trên Cấn dưới, mỗi Cấn là dương đậu một âm, một dương
là vật động tiến tới tột đỉnh thì dừng, âm là im lặng như cõi hồng hoang, với nội
lực của chàng đứng trước động tĩnh của không gian, tùy ý phát huy theo hoàn cảnh.
Tam "Địa sơn khiêm" chiêu khiêm Tốn,
Khôn là đất, Cấn là núi trong đất có núi, chịu hạ mình ở với đất nhờ thế mọi sự
hành thông vô bờ. Chiêu thức này tuôn ra như nước chảy, địch thủ sẽ bị chôn vùi
thân xác dưới đất.
Tứ "Thiên địa bỉ" chiêu bế tắc lập Kiền,
Khôn dưới ánh sáng, đất dưới trời cao, trời đất chia rẽ không liền nhau gọi là
bĩ trái với thái, địch thủ trúng chiêu này thân thể tan tác.
Ngũ "Trạch địa tụy" chiêu kết kợp, hi
tụ Đoài là đầm, hồ nước với Khôn là đất, đầm là nơi tụ của nước, tượng trương
cho sự hợp. Địch thủ tiếp nhận chiêu thức này nội tạng phân rã nhiều đoạn.
Lục "Hỏa địa tấn" Ly-Khôn mặt trời
càng sáng càng phát huy. Còn gọi là chiêu "Tiên bồ", khi xuất chiêu
đôi tay phát ra ánh sáng với sức nóng có nhiệt độ đốt chảy thân cây cổ thụ.
Thất "Thủy địa tỷ" chiêu gần gũi thân
thiết Khảm-Khôn nước đất không thể cách ngăn, kết liên làm một. Chiêu thức hóa
thành nước và đất tấn công địch thủ, kết quả địch thủ như tôm lăn bột.
Bát "Lôi địa dư" chiêu yên hòa, sấm động
với đất, sấm xuất từ đất khí dương giao hòa khai phát. Chiêu thức xuất ra từ dưới
đất đi lên, nổi sấm sét giận dữ địch thủ khó tránh, thể xác cháy như cây đuốc
rơm.
Cửu chiêu "Sơn địa bắc" trên núi dưới
đất, bích núi cao lấy đất làm điểm đứng, bám đỉnh cao để không suy rụng của đất.
Chiêu xuất lấy lộc địch thủ.
Thập "Phong địa quan" xuất khí minh
quan, xét quán tồn gió dưới đất đi vào khắp muôn sự muôn vật. Hai tay xuất
chiêu gió lồng lộng từ đất đánh vào địch bay trên không trung.
Thập nhất "Bát thuần khôn" đất hợp lại
che chở trung giới và trời, tạo ra mọi hiểm trở. Chiêu này địch thủ đứng trên
pháp trướng chờ xử trảm.
Thập nhị "Địa lôi phục" sấm sét trở về
đầm nước, thịnh đã đến chỗ cùng cực khí dương bắt đầu ló ra áng sáng, áng sáng
trởi lại. Chỉ xuất một chiêu khiến địch thủ phải qui phục, vì chiêu số biến hóa
khôn lường.
Thập tam "Sơn lôi di" nuôi sấm dưới
chân núi tịnh động nương nhau mà sinh ra muôn pháp. Hai tay tạo ra sấm sét lấy
không gian làm vũ khí, địch thủ sẽ bị gió giục mây vần chết trong lạnh lẽo.
Thập tứ "Thủy lôi truân" đẩy vật mới
sinh vào khó sống, dò hiểm dưới nước, mưa và sấm đầy trời, qua cơn mọi vật bình
thường. Chiêu thức này phá trận chiến thành bình địa .
Thập ngũ "Phong lôi ích" chiêu tăng
trưởng trên dưới gió sấm càng lớn bổ túc cho nhau. Nội lực phi thường tạo ra sức
mạnh của gió, dịch thủ trở thành con bông vụ.
Thập lục "Bất thuần chấn" dương âm
phát động khôn lương, dương động mãnh liệt. Chiêu xuất âm dương, dịch thủ kinh
sợ vì bị phế nội lực.
Thập thất "Hỏa lôi phệ hạp" hợp tinh
khí thần hóa lửa, sánh sáng chớp đánh tan những sự ngăn cách căng thẳng của trời
đất. Xuất chiêu này miệng bặm môi, răng cắn lại để ngăn cách hỏa trong thân thể,
chỉ dùng hai tay hợp khí thiên nhiên, đánh vào địch thủ sẽ bị tan tành thể xác.
Thập bát "Trạch lôi thủy" sấm động
trong đầm, chuyển theo ý đng thủ. Chiêu xuất chấn động lục phủ ngũ tạng địch thủ
phát điên chết từ từ.
Thập cửu "Thiên lôi vô võng" trên dưới
phân thành lưới trời, chuyển động theo lẽ trời sáng tạo, tự nhiên không gì cản
trở, phóng tâm không còn quấy phá, không tự dục, tư kỷ khí. Chiêu cõi giới thượng
thừa, chưa xuất chiêu mà làm cho địch thủ phải bỏ chạy.
Nhị thập "Địa hỏa minh di" kết Tổn trời
đất sáng, lửa rơi vào đất sinh ra tối tăm, kẻ hôn mê khiến cho sáng. Chiêu thức
cứu người.
Nhị thập nhất "Sơn hỏa bí" cửa nê hoàng
cung chuyển khí dương, làm lửa sinh từ lòng đất huyền nhiệm, ánh sáng hỏa chiếu
núi non trời đất. Chiêu này lửa sinh từ lòng đất, thân thể vận động hỏa cháy
thiêu hủy mọi vật .
Nhị thập nhị "Thủy hỏa ký tế" mọi sự
đã xong, từ hổn mang biến thành trật tự, mọi vật ở đúng chỗ và biến không nguy
hiểm. Chiêu thức này rất lợi trong trận chiến, đả thương địch nhưng không làm địch
tử thương, phương pháp cầu hòa.
Nhị thập tam "Phong hỏa gia nhân" Tốn
tượng theo phong, phong từ hỏa sinh ra, hỏa mạnh thì phong sinh. Chiêu thức xuất
phong hỏa đồng sinh, đốt cháy mọi vật thể.
Nhị thập tứ "Lôi hỏa phong" sự lớn nhỏ
ánh sáng nhờ thịnh suy của lửa. Thu nhỏ nội lực hay xuất chiêu mạnh mẽ tùy nghi
đối phó trước địch thủ.
Nhị thập ngũ "Bất thuần ly" hãm vào
chỗ hiểm nạn và giải tỏa hay bám vào, thấy trống không mà nùi lực phi phàm. Dẫn
dụ địch thủ bám chặt không rời, xuất chiêu quần địch như mùt quả tròn rơi vào lỗ
đánh đáo.
Nhị thập lục "Trạch hỏa cách" biến đổi
từng thời gian mùt, lấy lửa nấu nước cạn, tạo ra nước lửa khắc chế và ngược lại.
Chiêu thức khi xuất có khả năng đốt cháy thành tro bụi và thành cây nước đá lạnh
dưới tam thập độ âm.
Nhị thập thất "Thiên hỏa đồng nhân" lửa
người lửa trời bốc lên đồng nhau, tạo ra thể cân đối. Chiêu mựng lửa trời thiêu
hủy địch.
Nhị thập bát "Địa trạch lâm" tiến sát
tới, chứa chấp bao dung, trên đầm có đất, bờ giáp với nước, đầm trong rừng. Tạm
dung địch thủ, dù có sát phụ chi thù.
Nhị thập cửu "Sơn trạch tổn" bớt những
thiệt hại, núi cao thì đầm sâu, đầm ở dưới núi khí thông lên nhuần với cỏ cây vật.
Nương chiêu không hại địch thủ.
Tam thập "Thủy trạch tiết" chừng mực,
tiết độ hạn chế, khôn dò hiểm trở, tự mình biết chứa nước vào đầm. Vị tha không
hại địch, dẩu cho đất thổ cũng chi hận.
Tam thập nhất "Phong trạch trung phu"
báo tin trong long, phong đi trên đằm, sinh ra mọi biến hiện. Cảnh cáo địch thủ,
nếu địch thủ cố chấp chiêu thức tự nhiên phản công như rồng hút nước dưới hồ, đến
lúc phải ân đoạn nghĩa tuyệt.
Tam thập nhị "Lôi trạch qui mui" sấm
dậy đằm động, theo nhau như đôi âm dương. Chiêu xuất thân chính không ngại mây
khuất, bảo gió nghiêng thành.
Đến đây chàng dừng lại, hẹn ngày sau tập luyệt
tiếp ba mươi mốt chiêu còn lại, lòng vui mừng đã đạt được kết quả, chiêu số biến
đổi khôn lường, còn theo ý của riêng mình để phát huy võ học, đúng là võ học
"Bát Quái Lĩnh Nam", có nói "Vươn chiêu số sung mãn vô tận".
Chàng xem lại thì thấy cảnh vật tứ hướng như cây cỏ đất đá ngổn ngang hóa thành
bình địa.
Huỳnh Tâm
E–mail: huynhtamh4@gmail.com
Kho Tàng Việt Vương, tất cả 10 chương.
Đọc tiếp chương 8.
Lòng người mở ra ắc thông, bằng không sẽ ngẹt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét