Lòng Sống Chết Bừng Nổi
Dậy
Vũ Đế lấy quyết định rất nhanh, về
đến Hoàng cung xuất chỉ trao nội ngoại triều cho Thái Tử Hồ. Tam khắc sau Vũ Đế
cùng Hoàng Phi Bằng phi thân vào rừng, người và đại hạc đã xa tầm nhãn lực của
dưới đất, trên vung trời toàn là mây trắng nhẹ trôi.
Công chúa Hương Trí Túc thấy
Hoàng Thượng như vừa xuất hiện rồi biến mất. Còn sư phụ của Lữ Trường Gia không
thấy đâu cả chỉ thấy trên trời có đôi cánh hạc bay.
Hương Trí Túc có linh tính vội hỏi
Thái Tử Hồ :
― Thưa gia gia điện hạ, Hoàng nội
tổ đi đâu vậy, linh tính của nữ nhi hình như cưỡi hạc với một người, người đó
là ai, thưa gia gia ?
― Hoàng thượng đi thăm một hiền thần,
cưỡi hạc thì thỉnh thoảng thôi, khi nào sư phụ của Lữ Trường Gia đến thì Hoàng
thượng mới có dịp, đó là một thanh tú trẻ kém Túc nữ nửa canh thôi.
Hương Trí Túc ngạc nhiên hỏi:
― Thưa gia gia, sư phụ của Lữ Trường
Gia trẻ như vậy à, hài nhi không tin đâu !
― Bởi vậy, Túc nữ làm sao mà tin
được, nhưng gia gia đã chứng kiến võ học của thiếu hiệp họ Hoàng rồi, nhất là hành
động của thiếu hiệp còn trong sáng nữa đó, đất nước Nam Việt được thịnh vượng
như ngày nay tất cả do công lao của thiếu hiệp, nói chung thiếu hiệp là một nhân
tài văn thông võ lược.
Hương Trí Túc thắc mắc hỏi tiếp :
― Thưa gia gia, vậy người thiếu
hiệp này có những điểm gì đặc biệt và có tham vọng gì không ?
Thái Tử Muội Hồ giải thích :
― Túc nữ nhi hỏi như vậy cũng phải,
thiếu hiệp này căn cốt phi thường, tính hòa nhã, vui vẻ, độ lượng, cứu nhơn độ đời.
Không tham vọng gì cả, chỉ duy đức mà thôi, người thiếu hiệp thông minh xuất
chúng, không kiêu căng, không khoe khoang tài năng, ít ai biết thiếu hiệp có võ
học quán chúng, bởi tính rất nhún nhường.
Nhưng kẻ nào làm phản Nam Việt,
có chứng án phân minh, tức thì kẻ đó bị trảm, dù đó là ai cũng không tha thứ. Từ
lúc gia gia biết thiếu hiệp đã chứng kiến ba lần xử án, lần thứ nhất trừ bọn
mãi quốc Lê Vĩnh. Lần thứ nhì xử án thúc phụ Hoàng Phi Cương trưởng tộc họ
Hoàng, người này chính gia gia kết nghĩa huynh đệ. Lần thứ ba gần đây là Phùng
Hưng danh túc của thiếu hiệp, nguyên đệ nhất anh hùng Cần Lĩnh Nam, trên giang
hồ nghe tiếng Phùng Hưng là phải kính trọng.
Nói chung những tội nhân vừa rồi
không tha thứ được, tội mãi quốc cầu danh, rước voi về giày mả tổ, hay những ai
trợ trụ di ác sẽ không được tốt, đều xử theo minh bạch v.v...
Hương Trí Túc có ý không hài lòng
tính tình của Hoàng Phi Bằng nói :
― Thưa gia gia, người sư phụ trẻ
này tính tình cứng như đá, làm việc giãn mạnh dễ đứt, nếu nương tử của y phạm
phải cũng đem ra pháp trường sao, hài nhi sẽ đi tìm y để lý luận về giá trị sống
của mỗi con người.
Thái Tử Hồ khuyên bảo :
― Túc nữ nhi chưa đối phó với kẻ
làm phản cho nên trách Hoàng Phi Bằng, gia gia nghĩ rằng hài nhi chưa lịch luyện
nhân tình thế cố thì không thể đối với người khác được, khi chạm sự thực, lúc
đó mới thấy khả năng ứng sử thành hay bại là ở lý trí.
Hài nhi à, không có hy vọng nào đâu,
đừng đi tìm Phi Bằng, tỷ như hài nhi thất vọng có phải vô tình kết oán với người
ta. Gia gia biết Phi Bằng vốn đa tình, lãng mạn với đời, sống vị tha nhân, chứ
không phải vì một cá nhân thường tình mà nữ nhi suy nghĩ một chiều đâu. Thái Tử
Hồ suy tư:– Đúng là "Nữ thập tam, nam thập lục" mù không sợ kiếm.
Hương Trí Túc có ý định riêng nói
:
― Thưa gia gia, cho phép hài nhi
ra ngoài tìm Hoàng Phi Bằng hạn kỳ ba tháng, nếu gặp tại hoàng cung càng tốt, bằng
không gặp ở đâu cũng được, hài nhi tìm người mà giang hồ khó gặp mới là ý nghĩa,
dù nữ nhi có thế nào cũng không ân hận, xin gia gia khai ân cho di thần, bây giờ
nữ nhi phải đi luyện võ, tạm biệt gia gia.
Lữ Trường Gia và Hoàng Quốc Kỳ
không ngần ngại đem hết tuyệt kỷ võ học truyền lại cho Triệu Hương Lý và Hương Trí
Túc, đây cũng là tâm ý muốn hai công chúa trở thành trấn nhủ Hoàng cung, hai
nàng thụ hưởng được kiếm pháp họ Hoàng, Tuyệt cao kỳ kiếm và Phong tâm kiếm.
Ngoài ra còn luyện tập bộ pháp,
quyền pháp, đặc biệt trong kiếm pháp họ Hoàng mà hai nàng tâm đắc nhất chiêu thức
Tâm Bình Khí Hòa, chiêu thức này Hoàng Phi Bằng truyền thụ cho những cao thủ Cần
Lĩnh Nam. Tuy nhiên nội ngoại công Hương Lý và Hương Trí Túc còn kém hơn Lữ Trường
Gia và Hoàng Quốc Kỳ, nhưng đối với giới giang hồ là cao thủ.
Hương Trí Túc thông minh nhất,
nàng thường bẽm miệng, bẽm mép lấy được lòng Lữ Trường Gia, Hoàng Quốc Kỳ. Hiện
thời Hương Trí Túc có mục đích rõ rệt hơn, đi tìm tung tích của Hoàng Phi Bằng,
qua sự hiểu biết một phần đời với những liên hệ chi tiết, như đất tổ họ Hoàng ở
Quế Lâm, gia đình ở Cửu Chân, sinh hoạt Cần Lĩnh Nam, cũng như huynh đệ kết
nghĩa. Hương Trí Túc tin tưởng không bao lâu sẽ tìm được sư phụ trẻ Hoàng Phi Bằng.
Vũ Đế xuất thành lần này di phục
từ phàm ( giả thường dân ), trên cao nhìn xuống thấy giang sơn cẩm tú, gần nhất
là dãy núi La Phù có tất cả bảy mươi hai ngọn lớn nhỏ hùng vĩ, đại hạc bay chưa
đến động Lạc Việt trong lòng ông đã lo gần xa nô nức.
Vũ Đế xúc cảm cảnh giới đất nước
rộng thênh thang, tinh thần tự do khoan khoái hỏi :
― Điệt nhi xem thử trẫm có thể chọn
một ngọn núi nào ở La Phù này làm Hành cung được không ?
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
dãy La Phù chỉ dùng được trận chiến hay làm kinh đô tạm ẩn, nếu Phiên Ngung
thành thất thủ nên rút binh mã về đây cố thủ sau đó mới hồi thành. Việt Tú Sơn là
nơi du cảnh, cũng hợp lập đồ trận, Ngung Sơn mới là Hành cung tuy một ngọn nhỏ
nhưng là nơi rồng ngự, địa thế phong thủy an toàn, nhất thổ trong đại thất Long
huyệt Giang Nam. Ngày trước Tiên tổ Hồng Bàng băng đồi qua núi đi khắp đại
Giang Nam tìm đất Đại La mới trụ được mười tám đời Hùng Vương.
Nay Hoàng thượng điện hạ muốn khí
thế phụ phần đem lại long khí cho Bách Việt, tụ thành một khối Lạc dân thống
lãnh Giang Nam. Tuy nhiên các triều đại có thăng trầm nhưng ít nhất trụ được trăm
năm, con cháu tiếp nối nhiều đời sau, mỗi triều đại khác nhau hưng thịnh, ngày
sau Bách Việt được huyền niên đời đời thiên thu vạn đại, còn hơn một tộc chỉ
hưng thịnh trong thiên hạ được một đời rồng.
Ngung Sơn là nơi thích hợp nhất để
Hoàng Thượng lập Hành cung, chỉ cần lập đồ trận "Cửu hoàng tỉ tổ", thì
muôn thu không ai khám phá được, cũng là bí pháp tồn tại Bách Việt.
Vũ Đế khen :
― Trẫm nghe điệt nhi nói về Long
mạch hay lắm, ở đó cũng là nơi nối liền với hoàng cung rất tiện lợi và yên
tĩnh.
Đại hạc bay vào chân núi gần đến
động Lạc Việt. Hoàng Phi Bằng ra hiệu
cho đại hạc đáp xuống đất, chàng tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
đã đến nơi cung kính mời điện hạ rời đại hạc.
Năm con đại hạc bay vào không
gian, Vũ Đế cùng Hoàng Phi Bằng đồng phi thân xuống đất, toàn cảnh rứng vắng ngắt,
đại thụ che rợp bóng tinh rừng già, từ xa vọng lại tiếng thú rừng kinh dị, chim
muông, công trùng thi nhau hót bốn bề rừng xanh.
Hoàng Phi Bằng tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, hãy
cưỡi trên lưng tiểu thần.
Vũ Đế làm theo ý của Hoàng Phi Bằng,
chân chàng búng nhẹ phi thân vào sương mây giá lạnh. Vũ Đế nghĩ thầm:– Trên
lưng Phi Bằng với một sức nặng thế nầy mà vẫn phóng lên phơi phới, tốc độ gió
"vù vù" bay vào thiên không, quả là một kỳ tài. Vũ Đế cảm nghĩ hơi
lo, tay ôm thật chắc vào thân Hoàng Phi Bằng, chính mắt thấy bích núi đứng thẳng
ngất trời cao vút, bốn phương mây xám bao phủ, hơi nước trong núi toả ra tạo
thành nhiều lớp sương mù, như ban đêm sa xuống đất, bích đá sương đọng thành
tuyết, gió thổi từng chuỗi đập vào đá lâu ngày trắng như muối, hai bên tai của
Vũ Đế với gió thổi lạnh hơn cưỡi đại hạc, tiếng gió cứ mãi hú vang sau đôi
chân, nếu không nhằm đây là pháo thăng thiên bay đến độ nào rồi phải nổ rơi xác
hồng xuống đất, đủ chứng thực võ học thượng thừa của Hoàng Phi Bằng đã đến cảnh
giới cao nhất.
Vũ Đế còn nhớ cách đây mấy năm về
trước, chứng kiến Hoàng Phi Bằng cõng quân thần phi thân lên đỉnh Điện Thái
Hòa, cao mấy chục thước đã phi phàm lắm rồi, lần này chứng thực cảnh giới bất lộ.
Tiếng gió "vù vù" mạnh, thân trải nắng phơi gió thổi càng cao làm ù
đôi tai, không còn định được chiều cao của núi.
Một lần nữa Vũ Đế liên miên tự thầm:–
Võ học của ta không phải tầm thường, thế mà nghe tiếng gió cũng phải để lòng lo
ngại, phi thân của ta cũng không phải là tệ, ngay cả Hoàng Hạc cũng phải kém đến
hai thức, nếu bảo ta tự phi thân lên núi đá đứng thẳng thì làm sao được ư ?
Đối với Hoàng Phi Bằng ra vào động
là thường tình của mỗi ngày. Một xoay mình nhẹ đã đáp xuống cửa động Đông, lần
này Vũ Đế tưởng Hoàng Phi Bằng là thân đại hạc. Vào đến cửa động, Vũ Đế mới tin
được an toàn, trên da mặt trở lại hồng hào.
Thái Tử Hồ chỉ biết Vũ Đế đang ở Nam
Hải, nào ngờ lần này Vũ Đế cùng với Hoàng Phi Bằng âm thầm xuống tận Giang Nam.
Vũ Đế vào động lúc này ngoài vung trời vừa
xẩm tối. Hoàng Phi Bằng tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
long thể của điện hạ có thay đổi thì cho tiểu thần biết, tại sảnh đường này là
ngự phòng, hy vọng Hoàng thượng thích nghi điều kiện sống cực khổ ở đây, tâu điện
hạ tam khắc tiểu thần sẽ trở lại.
Vũ Đế đưa mắt quan sát sảnh đường
thấy trang trí khan trang, đúng là quan sảnh của một thư sinh nói :
― Long thể của trẫm tốt lắm, điệt
nhi cứ từ từ còn sớm mà.
Hoàng Phi Bằng vào kho tàng đem
ra những vật dụng trải trên phản gỗ lim thay thế cho Long sàng, có cả long bào,
long cổn, vương miện, long hài, nhiều vật dụng khác để Vũ Đế dùng trong ngày và
qua đêm. Chàng không biết thứ gì vua dùng được, cứ thấy đẹp là ôm xuống sảnh đường.
Chàng tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
những thứ này chỉ dùng qua đêm nay, sáng mai tiểu thần tìm những thứ mà điện hạ
cần đến.
Vũ Đế thấy những vật này đã như nằm
mơ trong mộng, vì tấm vải trải trên phản gỗ lim rất đặc biệt làm bằng tơ mướt mịn,
mười hai lớp màu vàng, khi trải thẳng thớm nó tự phồng lên, khi ngủ tùy người
muốn nằm ở lớp vải nào cũng được rất ấm và êm, có cả gối đầu cao. Vũ Đế hết ngạc
nhiên này qua ngạc nhiên khác như Long Cổn để hành lễ đại Hoàng triều, thêu chồng
lên nhau mười hai lớp rất cầu kỳ, đòi hỏi nghệ thuật thêu cao kỷ, thế mà ở đây
cũng có, Long Cổn mỏng nhẹ màu vàng đậm, thêu nổi tứ quí long, lân, qui, phụng,
đính kim cương ngọc bích vào bốn chéo góc lộng lẫy.
Vũ Đế tự nghiệm:– Lạ thay nơi này
là đâu hay là một cung điện của thế giới thực tại không phải là kỳ ảo chứ ?
Đang bày ra trước mặt những Long bào xuân hạ hoàng đế, thêu nổi một con rồng lớn
màu vàng, chân đỏ, đôi mắt sáng đính bằng kim cương ngọc phỉ, thân bào may các
loại vải quý như đoạn bát ti tơ tằm, sa nam, the, vải quế, nhiễu, vân... viền
tà bào màu xanh, sườn bào ngang gối, đai lưng vàng đắp nổi rồng trắng, lộng lẫy
và tinh xảo, còn có Vương niệm vàng đính kim cương ngọc thiên thanh hình rồng,
Long hài màu vàng nhật, thêu nổi con hạc màu vàng đậm, đính kim cương, viền hài
đính ngọc thúy cát. Mãng lan bào thu đông hoàng tử, thêu bốn lớp rồng bốn móng,
may bằng vải đoạn bát ti tơ tằm. Sa kép xuân hạ thái tử, làm từ các loại vải
quý như đoạn bát ti tơ tằm, sa nam, the, vải quế, nhiễu, vân với những hoa văn
tinh xảo. Vũ Đế gần như hoa mắt qua những bào phục nữ giới như Phượng bào thu
đông Hoàng hậu. Sa kép xuân hạ quý phi, Mệnh phụ thu đông công chúa với những
mũi thêu, đường chỉ, nét vẽ hết sức tinh vi rất quí phái. Cho đến hàng loạt vật
dụng giá trị mà trong cung Nam Việt Vũ Đế chưa hề có, như chân đèn, khay ngự
thiện, chén đĩa, ống đũa, hộp đựng trà, lư trầm bạc đồng chạm khắc tinh xảo cầu
kỳ, không thiếu thứ gì cả, chính sập Vũ Đế đang ngồi cũng chạm trổ rồng chung
quanh bốn phía, người bình thường không hề biết giá trị của sập này. Vũ Đế mới
thấy vài trang phục giá trị, như hiện ra một kho tàng trước mặt. Vũ Đế để lòng
chiêm ngưỡng không dám trầm trồ những vật dụng vừa thấy qua.
Hoàng Phi Bằng chuẩn bị Ngự thiện
phòng kiến giá Vũ Đế. Chàng lo từng mọi vật dụng không thiếu thứ gì, bốn góc sảnh
đường thắp đèn hồng lạp tỏa sáng. Bàn ghế bằng gỗ Tiểu đàn, đặc biệt bốn chân
chạm kim qui, ghế chạm rồng, mặt bàn phủ một lớp vàng dày, trên bàn còn có một
đèn hồng-lạp lớn bằng bắp tay, chân mạ vàng. Buổi ngự thiện tối thực đơn sơ nhẹ
như canh cá Hanh nấu với đậu hủ non gia vị hương ngọt, chua, cay, đắng, mặn đựng
trong chén Ngọc Thúy Thanh mỏng. Cháo ẩn hoa nấm hương, rơm, thơm trầm đựng
trong tô Ngọc Xuân Thanh. Cá chép nướng than hồng đựng trong đĩa bạc vàng, đủa
ngà đầu nạm bạc.
Trong buổi ngự thiện đơn sơ, Vũ Đế
hài lòng khẩu vị ngon, lạ miệng tò mò hỏi :
― Những thứ này ở đâu mà có hả
Phi Bằng nhi ?
Hoàng Phi Bằng bối rối sợ không hợp
khẩu vị tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
đây là những thứ có từ trong động Lạc Việt, tiểu thần chỉ mua đậu hủ ở một trấn
gần đây, đem về để dưới giòng suối. Thực đơn này do tiểu thần làm, nay kiến giá
điện hạ hy vọng hợp khẩu vị .
Vũ Đế thực lòng khen :
― Quả là ở Giang Nam tuy đơn sơ
nhưng gồm hết ưu điểm tám hương vị, nồng mà nhiệt, mặn mà hơi ngọt, ướp lại
không ớn, cay lại không đắng, thảo nào ngự thiện hôm nay trẫm hảo .
Vũ Đế cằm chung Ngọc Trường Thúy
lên hỏi :
― Phi Bằng nhi, đây là loại rượu
gì ?
Hoàng Phi Bằng sợ rượu không hợp
khẩu vị tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
tiểu thần kính dâng rượu Lãnh Hương Kỳ Nam.
Vũ Đế uống một hớp rượu cảm thấy có
hương vị thấm thấu lục phủ ngũ tạng, tuy đã vào bụng mà còn động lại hậu rượu
nơi quãng hầu, liền khen :
― Lãnh Hương Kỳ Nam là loại rượu
rất tầm thường, nhưng tại sao uống vào có mùi vị đặc biệt lạnh trước, ấm sau và
cay dịu không nồng, Phi Bằng thường dùng loại rượu này hay sao ?
Hoàng Phi Bằng thuận miệng tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
tiểu thần không biết dùng rượu. Trước đây nội tổ đến động này, bảo tiểu thần đi
mua một vại rượu để nhắp nhi với cá nướng, tiểu thần mua một lúc mười vại rượu,
nội tổ uống một còn chín vại, từ đó tiểu thần ngâm dưới đáy suối lạnh, có lẽ nhờ
vậy mà rượu mới hóa ra mùi vị đặc biệt.
Sau buổi ngự thiện Hoàng Phi Bằng
dâng trà tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
tiểu thần kiến giá dâng trà Thất Đại Mạch Ngọc lấy từ cao lượng, như Châu Hoài
Hương (long nhãn khô), Thượng Yên Quỳnh Giao ( hạt dẻ ), Ngọc Trong Hồ ( hạt
sen ), Ngân Nam Thiên Phẩm ( trái giải khô ), Bữu Ngũ Thụ Ngân Hoàng ( bạch quả
), An Kỳ Trân Phẩm ( quả táo ), Phùng
Sơn Thúy Lạt Cô ( hạt thông ).
Hoàng Phi Bằng giải thích thêm:– Dùng
thất đại mạch ngọc cao lượng mỗi ngày có công hiệu củng cố trường xuân, nếu như
nấu cháo thì phải thật lâu mới có mùi vị còn có tên gọi là cháo Thất Bữu.
Thất Đại Mạch Ngọc cao lượng ăn
khô và uống với trà Chánh Nam Đại Hồng Bào thì có công hiệu giải được mệt mỏi.
Hoàng Phi Bằng thấy Vũ Đế đang ăn
và uống trà tâu tiếp:– Hoàng thượng điện hạ đã dùng qua Thất Đại Mạch Ngọc và
trà Chánh Nam Đại Hồng Bào cảm nhận được hương vị khác thường không ?
Vũ Đế cảm thấy sảng khoái suy nghĩ:– Thực đơn
cho đến rượu trái cây, trà mỗi thứ có hương vị đặc biệt của nó, chỉ ở đây mới
thực sự có hương vị khác thường trong thực phẩm bình thường, còn nói về trà
Chánh Nam Đại Hồng Bào thì lần đầu tiên mới được uống, đúng là một hương vị cực
phẩm khó tả. Vũ Đế cảm xúc nói :
― Trẫm thấy chung trà này uống
vào nhận được nhẫn mà ngọt mùi vị rất thanh, nước nóng mà lại mát, có lẽ uống
chung trà này từ từ mới thưởng thức hết sự tinh khiết của nó và toát ra được
thú vị của tinh trà.
Hoàng Phi Bằng giải thích trà
Chánh Nam Đại Hồng Bào cho Vũ Đế nghe :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
trà Chánh Nam Đại Hồng Bào tự sinh trên nham thạch, thụ khí thiên nhiên, sống
ít nước nhờ sương gió tăng trưởng, kiên nhẫn là điều kiện tụ thành sự sống, mỗi
gốc Chánh Nam Đại Hồng Bào lấy được một đọt trà, trên Chí Đầu lãnh nham thạch lấy
được một cân trà, cho nên số lượng rất hiếm, có thể nói trà thượng phẩm.
Vũ Đế hài lòng nói :
― Cơm canh, cháo nấm, cá nướng, mạch
ngọc rượu, trà hương vị đậm đà đã xong, Trẫm lấy làm hoang lạc một đời nhất dạ
đế vương.
Hoàng Phi Bằng ngó bên ngoài động
thấy sương mù dày đặc, báo hiệu canh tý, chàng cung đôi tay vội chúc hạ Vũ Đế :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
đêm đã khuya tiểu thần chúc điện hạ gối cao ngủ yên và an lạc.
Vũ Đế chuẩn bị đi ngủ, suy nghĩ một
ngày trôi qua lòng cảm xúc, mắt lim dim hồn đưa một quân vương vào mộng. Chân Vũ
Đế bước đến vườn hoa vạn loại, đi đến một thị tứ dân cư sầm uất, phố xá lâu đài
qui nga lộng lẫy, cảnh dân sinh hoạt thanh bình của rơi không ai lượm, cửa nẻo
không ai cài, người người ăn mặc tươm tất, bào phục lụa là thanh nhả, tiếng cười
chào kẻ lạ người quen rất lịch sự, cảnh sống an lạc.
Bỗng có tiếng của đại hạc kêu, Vũ
Đế thức dậy mới biết trời đã sáng, không khí trong lành còn phất phới đâu đây
mùi Dạ Lý Hương, chân bước rời khỏi Long sàng, thấy một bồn nước bằng thúy ngọc,
kệ khăn lau long nhan bằng vàng, trên bàn hướng phải đã có một bộ kỷ trà chung
thanh ngọc, bình trà đang bốc khói từ xa mà đã phảng phất mùi thơm rất dịu của
trà Chánh Nam Đại Hồng Bào, một khay khác cũng bằng thanh ngọc rất mỏng tanh,
chén bằng thúy ngọc, trên khay áng chừng mươi bánh bao thịt và bánh bao chỉ
nóng hổi, đũa bằng bạch ngọc, bát đĩa mỏng như vỏ trứng gà, buổi điểm tâm hôm
nay thịnh soạn hơn cả Hoàng đế Trung nguyên.
Hoàng Phi Bằng ngồi bàn bên này
rèm hạt châu, cũng ăn bánh bao, nhưng vật dụng chén bát bình thường như Lạc
dân, Hoàng Phi Bằng vừa ăn lại nhớ ngày trước cũng nơi này đã tiếp Tiên tổ, nay
chân dung xưa hiện về trong ký ức, tự nhiên nước mắt rơi lệ.
Vũ Đế tình cờ nhìn qua bàn thấy Hoàng
Phi Bằng đang khóc, liền hỏi :
― Điệt nhi, có tâm sự gì mà phải
rơi lệ vậy ?
Hoàng Phi Bằng đôi tay lau nước mắt
tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
ngày đầu tiên Tiên tổ đến động Lạc Việt, nay đã trôi qua mấy thu, mà vẫn còn thấy
chân dung của Người ở đâu đây !
Vũ Đế nhạy cảm hiểu được tâm tình
nói :
― Thì ra là thế, vì trẫm mà điệt
nhi nhớ Tiên tổ chứ gì, đã trưởng thành mà còn rơi lệ có khác nào trẻ đòi sửa mẹ,
dù Phi Bằng nhi rơi lệ thật nhiều cũng không gọi được Tiên tổ từ ba tấc đất nhảy
lên được, thương yêu đó để trong lòng đừng cho ai biết thế mới gọi là nam nhi
chứ ?
Hoàng Phi Bằng lau nước mắt tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng, điện hạ Lạc
dân tùng mệnh, nhưng Tiên tổ cùng thần có một chí nguyện, tuy hai mà cùng một điểm
chung nhằm mưu cầu Lạc dân phú. Tiểu thần làm sao mà an tâm được !
Vũ Đế nghĩ thầm:– Đúng là chàng
trai đa cảm, ngoài võ học còn thông thái kinh thư, nhân tiện trẫm tìm hiểu về nhân
chánh thời U Việt của Hoàng đế Câu Tiễn và nhân chánh của Nam Việt ngày như thế
nào, hầu bổ túc cho nhau. Vũ Đế tin tưởng giải đáp lời hay của Hoàng Phi Bằng hy
vọng có ý kiến hay hỏi :
― Quả nhân muốn biết điệt nhi luận
về nhân chánh của thời U Việt thế nào ?
Hoàng Phi Bằng bổng tính đã tự
nhiên, liền trả lời:
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
tiểu thần đã độc qua bộ kinh thư "Tâm Thông Trí Đức Dũng" của Hoàng đế
Câu Tiễn.
Vũ Đế vui mừng đã có người cùng
luận về Bách Việt, rồi nói :
― Tốt lắm, quả nhân đã tự luận về
tổ tiên Bách Việt, nay Phi Bằng nhi có biết trước đây nước U Việt là một trong
tôn tộc Bách Việt ở xứ Triết Giang ngày nay không, xưa kia Hoàng đế Câu Tiễn nhân
chánh. Người đã làm rạng rỡ nước U Việt, đó là nguyên nhân ngày nay cần phải học
của người xưa, lấy người sống trước chỉ dẫn người sống sau, như "Cửu Sách Đại
Vương Câu Tiễn" làm quốc trùng sanh. Phi Bằng nhi luận thế nào về Cửu Sách.
Hoàng Phi Bằng hiểu ý tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ,
Hoàng đế Câu Tiễn sau mười năm làm tù nhân ở Ngô quốc, đến khi về lại cố hương
Người hết lòng nguyện quốc trùng sanh, thực hiện cửu sách phục hận diệt Ngô :
Nhất sách triều cống mỹ nhân. Nhị
sách ly giáng quân thần. Tam sách mua quan bán chức. Tứ sách lòng dân xa chúa.
Ngũ sách gian thần tham ô. Lục sách triều cống. Thất sách cống phẩm, Bát sách U
Việt nông tang điền thổ, Cửu sách U Việt quân binh hùng mạnh.
Đặc biệt Hoàng đế Câu Tiễn còn hai
bộ kinh thư "Tâm Thông Trí Đức Dũng" và "Bách Vật Kinh" chủ
yếu canh tân trùng sanh đất nước, lấy nhân chánh trị quốc, nội dung chủ yếu: Đạo
dân là quí, xã tắc đứng thứ, vua là nhẹ và Bách Vật làm giáo dục thần dân.
Đạo nhân chánh còn có bốn điều :
Nhất tuyệt tất khính. Nhị tuyện
tất nghiêm. Tam tuyệt tất đỗ ( giữ nước ). Tứ luật tuyệt tất diệt ( không để
vong quốc ).
Bộ kinh viết rõ : "Quốc khuynh khả chính,
Quốc nguy khả an, Quốc đỗ khả khởi, Quốc diệt tất khả phục hồi". Đạo văn
võ hiến phương sách, chiến lược, trọng đức pháp: Nhất viết Lễ, nhị viết Nghĩa,
tam viết Liêm, tứ viết Sĩ.
Hoàng đế Câu Tiễn thấy được sự hưng thịnh của đất
nước cho nên Người dụng nông tang điền thổ, mới xuất chế sách "Thủ Chi
Quân Điền Chế, Tam Trường Chế" và tam hữu: Hữu chinh chiến chớ cướp bóc. Hữu
nạp cống phẩm chớ tham lam. Hữu sinh dưỡng chớ quên học.
Thời của Người hợp trị văn-hiến Bách Việt, xem
Trời như Cha, xem Đất như Mẹ, đa thần linh, cho nên anh hùng Bách Việt nung nấu
cái tâm tất thắng và Đạo tập chí hợp Bách Việt, ở điểm này thời của Người chưa
đem lại kết quả. Nhưng thành công về mặc Võ nghiệp, đúc rèn binh khí, huấn luyện
sĩ tốt, bổn phận con dân gữi và dựng nước thể hiện rất rõ. Về sản xuất tích sản,
súc vật, lương thảo, ngũ kim, lập kho đụn cứu tế, từ đó dân giàu nước mạnh .
Thời U Việt nhờ có đấng minh quân Câu Tiễn tạo
nghiệp thái bình. Ngày nay không hẳn như thế, bởi chế sách tùy thời thế, địa
lý, nhất là biết đẩy cũ đi dựng thành mới, kẻ cũ không hợp thời, kẻ mới sáng tạo,
tinh hoa.
Thời đó Hán học cũng có cặn bả, Nam học cũng có sở trường, cho nên loại
bỏ cặn bả chọn lấy tinh hoa, gây lợi, trừ hại. Người đời có nói: "Bảo cổ
canh tân".
Tuy U Việt là một quốc gia hùng mạnh Trung
Nguyên nhưng trị vì được ba đời. Đại Vũ Tiên Vương lập ra nước U Việt, truyền
ngôi cho Câu Tiễn hiệu là Vũ Vương, đến đời Lục Ảnh thì U Việt "Quốc đỗ khả khởi, Quốc diệt tất khả phục
hồi".
Từ đó Sở dĩ U Việt bị quốc phá bởi những yếu tố,
tranh dành quyền lực, minh hữu trung trực thay đổi, một khi chuyên quyền thì
khó mà trị nước, vốn lụy ái nữ sắc, không còn thời gian lo việc nước và triều
chính.
Nói về bảo vật U Việt còn lưu truyền đến ngày nay
phải kể đến kho tàng tọa lạc Nam Việt. Ngoài ra còn có bảo vật Việt quốc, Hải Hồng
Đậu Châu dùng để khử nước, hai thanh kiếm Đại Vũ và Vũ Vương vẫn còn tại thế. Đặc
biệt vào thời đó nghề luyện kim rất quí trọng .
Nam Việt Vũ Đế ngồi yên lặng nghe Hoàng Phi Bằng
luật một hơi về triều đại Hoàng đế Câu Tiễn. Vũ Đế hài lòng và muốn biết ý
riêng của Hoàng Phi Bằng về thời nay, Vũ Đế hỏi :
― Đó là những chế sách ngày xưa của thời Hoàng
đế Câu Tiễn đã thực hiện có việc được việc không, còn ngày nay Phi Bằng nhi luận
thế nào ?
Hoàng Phi Bằng thẳng thắn tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, lịch sử ngày
xưa và ngày nay khác nhau nhiều lắm, Hoàng đế Câu Tiễn vừa bị mất nước, vừa bị
tù đày với đôi bàn tay trắng. Người chấp nhận chịu khổ nhục để sống chờ ngày bảo
quốc trùng sanh, đó là ý chí lớn của người phi thường, hai nữa người còn có một
nghĩa đệ Phạm Lãi nguyên quán nước Sở văn võ song toàn, trí lự kiên cường,
chính là động lực thúc đẩy tinh thần chấp cánh cho Hoàng đế Câu Tiễn. Sau khi
huynh đệ Hoàng đế Câu Tiễu và Phạm Lãi về được U Việt, lập tức viết bộ kinh thư
"Tâm Thông Trí Đức Dũng" trong bộ kinh có hồi "Cửu Sách" nhằm
tóm thu nước Ngô, người đời còn gọi là "Cửu Sách Câu Tiễn".
Một đất nước từ nô lệ, không tài sản, trở thành
hùng cường, thịnh vượng, thanh bình và còn lấy được nước Ngô nữa, bởi do chí lực
và hận quốc mới quyết định thành công.
Còn ngày nay Nam Việt bao la rộng lớn hơn ngàn
lần U Việt, thời đại được ưu đãi hơn, trước mắt hùng mạnh qui nguyên tôn tộc
Bách Việt về một mối, đời sống thanh bình. Quân thần, tướng sĩ, Lạc dân trên dưới
một lòng xây dựng đất nước đã thực sự giàu mạnh, nhờ thực hiện chế sách
"Nhân sinh" của Hoàng thượng điện hạ, nếu nói hơn "Cửu Sách Câu
Tiễn" ngày xưa thì không đúng, mà phải nói rằng ngày nay kém xa tiền nhân
mới đúng. Nhưng rất tiếc Hoàng thượng điện hạ lại ở vào thế kỹ nhị hạc, nếu mà
trẻ bốn mươi canh nữa thì chế sách "Nhân sinh" được lưu truyền muôn đời.
Vũ Đế vẫn yên lặng để tìm hiểu suy nghĩ của
Hoàng Phi Bằng như chính tâm nguyện của lòng Lạc dân nói ra.
Hoàng Phi Bằng suy nghĩ một hồi nói tiếp:– Muôn
tâu Hoàng thượng điện hạ chế sách "Nhân sinh" mới thực hiện được một
phần trăm mà đất nước đã khởi sắc, bây giờ nếu có một nhân vật uy vũ, chí dũng
thay thế vào việc làm của Tiên tổ Hoàng Hạc thì đương nhiên Hoàng thượng điện hạ
tóm thu được phương Bắc.
Vũ Đế trong lòng cũng nao nao và hiểu được suy
nghĩ tham vọng của Hoàng Phi Bằng. Ông thở dài tự thầm:– Tiếc cho đời người
không qua khỏi số trời đã định, anh hùng nào cũng để lại thế gian ít nhiều việc
làm chưa hoàn mỹ vẫn vô khuyết trong tự nhiên ! Vũ Đế cười hahà … nói :
― Quả nhân vui mừng có được một đảm chí, khí khái
như điệt nhi, những suy nghĩ thực thế nghiêm chỉnh, đúng như câu: "Nửa đêm
trước nghĩ cho người khác, nửa đêm sau nghĩ cho mình". À nay Nam Việt có vạn
anh hùng, nhưng không có ai đủ khả năng gánh vác chế sách "Nhân sinh"
hay sao ?
Hoàng Phi Bằng hiểu được lời nói của Vũ Đế như
than vãn tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, việc này chỉ
có điện hạ mới thực hiện được, còn ngoài ra không ai có khả năng.
Vũ Đế ngạc nhiên hỏi :
― Phi Bằng nhi tại sao ?
Hoàng Phi Bằng tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ "Cửu Sách
Câu Tiễn" cấu tạo bởi thù hận, trí tuệ, tinh lực, đau khổ, mồ hôi kết
thành gia tài U Việt, còn chế sách "Nhân sinh" là tự nguyện dâng hiến,
bởi thế mà chính Hoàng thượng điện hạ đứng vào vị trí của Hoàng đế Cân Tiễn mới
thực hiện được tâm huyết "Nhân sinh".
Không thể giao cho bất cứ ai vì lúc nào họ cũng
ỷ lại của trên trời rơi xuống, kết cuộc họ sử dụng bất minh, tài sản này sẽ tự
thành nước chảy ra biển, chỉ có Điện hạ mới thực hiện được mà thôi, hai nữa Điện
hạ là chủ nhân chế sách "Nhân sinh" đã từng trân quí nó như một phép
lạ, nếu nay giao cho một người không biết trân quí nó, đương nhiên sẽ bay như mây
khói. Khác nào cha mẹ buôn thúng bán mẹt, tảo tần tháng năm, hà tiện mới có một
gia tài lớn, sau khi thác, những người con dùng vào việc tửu sắc, trụy lạc,
nuôi môi hồng má phấn, canh ba giàu canh năm nghèo, dù cho tài sản cao như núi
cũng phá sản, kết quả người con thành kẻ trắng tay! Xa hơn là nhà vô phúc, con cái sẽ tàn xác lẫn nhau đó
là mối họa lớn vậy của tài sản !
Vũ Đế vui mừng thầm:– Hoàng Phi Bằng lý luận
khá lắm, biết tin người để trao kho tàng, biết giá trị tài sản và sử dụng đúng
hữu ích cho Bách Việt. Vũ Đế khen :
― Trẫm khen Phi Bằng nhi có tài thuyết phục,
bây giờ trẫm muốn yết kiến sư phụ của điệt nhi được không ?
Hoàng Phi Bằng thấy cả buổi sáng nay ở trong sảnh
đường bàn luận đã lâu, muốn đưa Điện hạ ra thung lũng để đổi không khí tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, tiểu thần kính
cẩn mời Điên hạ ngự lãm vườn cây ăn trái trong động.
Vũ Đế vốn đã để lòng cũng muốn tìm hiểu nơi ăn ở
của Hoàng Phi Bằng. Vũ Đế gật đầu đồng ý nói :
― Phải lắm, trẫm cũng cần ra ngoài để hưởng
không gian tiên cảnh ở đây.
Hoàng Phi Bằng tâu :
― Muôn tâu hoàng thượng điện hạ, kính cẩn mời rồng
dời theo tiểu thần.
Rời khỏi sảnh đường đi qua hai bích đá là ra
thung lũng, Vũ Đế và Hoàng Phi Bằng cùng thấy một bóng trắng từ trên cây đào
chín hồng, phi thân xuyên qua và biến vào bên suối Nam.
Nhãn lực Hoàng Phi Bằng thấy rất rõ đây là một
con hầu màu trắng, không lấy gì làm lạ, chàng tự hứa hẹn mỗ sẽ tìm hầu làm bạn.
Đối với nhãn lực của Vũ Đế thì rất lạ và bí ẩn,
bởi thấy một hình bóng màu trắng không thấy chân dung phi thân, kéo thành một vệt
xẹt qua trước mặt.
Vũ Đế nghĩ thầm:– Trẫm ra đây bất ngờ quá cho
nên sư phụ của Hoàng Phi Bằng không tiện tiếp, thôi thì tự lòng xin lỗi với người.
Từ đó Vũ Đế để lòng không hỏi về sư phụ của Hoàng
Phi Bằng nữa. Quang cảnh u nhã ở đây đúng là cảnh tiên, Vũ Đế hình dung như đã
đi qua một lần không biết lúc nào và địa danh nào. Không khí trong lành hơn trần
thế, hương vị đặc biệt từ vườn cây tỏa ra mà ông chưa hề thưởng thức, riêng về
cỏ cũng cho mùi thơm rất dịu, muôn màu huyền quang tạo cảnh thiên nhiên đẹp,
nói chung vạn vật ở đây khác ngoài đời, trong lòng ông tự hiện sống lại cảnh
tiên giới đêm hôm qua, bây giờ mới chính thức hiện lại. Vũ Đế nghĩ thầm:– Trong
hư đêm qua chính là thực của hôm nay.
Vũ Đế đến gốc đào, tay hái một trái ăn thử, mùi
vị cũng như tối hôm qua, vườn cây ăn trái trong thung lũng cũng đủ tạo thành cảnh
giới tiên, cây trái đang nặng trĩu quằn cành như mãng cầu, soài, mít, mận, cam,
bưởi, chanh, dừa, đu đủ, thanh long v.v...
Vũ Đế đến bờ suối Tây, ngồi trên tảng đá ăn
trái thanh long chín đỏ, ngọt lịm hợp khẩu, nhìn dưới suối có nhiều loại cá tung
tăng xem rất vui lòng đẹp mắt, rồi đi dạo cảnh ngoài vườn đến trưa không biết
chán, tâm thần thư thái, lòng ông tự hẹn ngày về triều trước nhất phải dùng
công đoái, dùng lý giải, dùng đức phục.
Hoàng Phi Bằng chân bước nhẹ đến tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, đã trưa đúng
thời ngự phạn mời Điện hạ vào sảnh đường ngự thiện.
Vũ Đế mải mê ngoài thung lũng quên cả dùng
trưa, vì ông đã ăn vài trái đào, thanh long, thêm một trái đu đủ chín cây, xem
ra cũng no nê.
Vũ Đế tâm trí đang hồi ký ức:– Nhớ lại ngày còn
thơ ấu, tự tay bổ trái đu đủ chín để ăn, bên cạnh còn có mẫu thân cùng ăn, bà
khen ngon. Ngày đó sống rất an lành, nay trôi qua vùn vụt xem ra đã hết tuổi đời
người !
Hoàng Phi Bằng tâu lần thứ hai :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, trời đã trưa kính
mời điện hạ vào sảnh đường ngự thiện.
Sau khi nghe Hoàng Phi Bằng tâu, tâm thần Vũ Đế
rời xa cảnh tiên giới, hồi về thực tại nói :
― Phi Bằng nhi bình thân, Trẫm đang chuẩn bị
đây.
Vũ Đế đi vào thấy trên bàn ngự thiện thực đơn
sơn khê mười hai món, đựng trong những chén đĩa nhỏ đồng bộ bằng ngọc thủy
thúy, chỉ ba gắp là hết thức ăn, một chung hà thơm dịu đúng là quỳnh tương, đôi
đũa ngọc bạch lý, một chén ngọc thúy.
Hoàng Phi Bằng ngồi ăn riêng một bàn kế bên
cũng những thực đơn sơn khê ấy, nhưng chén, đũa, đĩa dùng bình thường như hôm
qua.
Hôm sau Vũ Đế hỏi Hoàng Phi Bằng :
― Trẫm muốn sinh hoạt tự nhiên trong động, Bằng
nhi xem có được không ?
Hoàng Phi Bằng tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, trong động rất
an toàn, điện hạ tự nhiên và tùy ý thoải mái theo sở thích của điện hạ.
Vũ Đế ra thung lũng thấy cảnh trí nơi nào cũng
đẹp, tuổi hồn nhiên lại hiện về, cùng lúc ông đứng trước suối có ý định thử làm
một ngư phủ già, ông tìm được một nhánh cây khô nhỏ dài độ hai thước, rút một sợi
tơ từ bào phục dài hơn ba thước và lấy thiết khí trong bào phục làm lưởi câu,
chỉ trong vài khắc trên tay Vũ Đế cằm một cần câu, sau đó đi đào trùng đất làm
mồi câu cá, người hồn nhiên cảnh sống thiên nhiên mở cửa lòng. Vũ Đế ngồi bên bờ
suối phía động Nam câu cá. Tựa hồ suy nghĩ đó đây:–
Nơi này đúng là Huỳnh sơn kỳ vĩ, cổ tùng to lớn, suối reo, mây trời biến hóa vô
song.
Cá cắn câu liên tiếp, tay giật cần không thấy
cá, tiếp tục thay mồi, nhưng cá không mắc câu, bởi thiết khí thẳng không có ngạnh.
Ông bật tiếng cười:– Ha hà ngư phủ lương thiện ngồi đây gần hết buổi mà vẫn cần
câu không khí, đúng là Khương Tử Nha ngày xưa, bất ngờ vài khắc sau, câu được một
con cá Lý vàng nặng hơn ba cân. Vũ Đế lại cười tiếp ha hà :– Đúng là con cá khờ
hết số.
Vũ Đế đi tìm củi khô nướng cá, cá chín ăn vào
hương vị ngọt, thơm, thanh, tươi lần đầu tiên hưởng được lạc thú sơn dã. Sống ở
đây đúng ba ngày tận hưởng thiên nhiên và an lạc, có những con hạc biết Vũ Đế,
chúng hồn nhiên tung tăng chạy đến xòe đôi cánh như chào hỏi, nó còn biết hái
đào dâng cho Vũ Đế. Ông tự nghĩ lòng:– Thảo nào sư phụ của Hoàng Phi Bằng vô
hình vô ảnh, chỉ một thoáng qua thay lời chào hỏi, âu cũng vì hai thế giới thực
hư không giao tiếp được, thế cũng đã mãn nguyện lắm rồi !
Vũ Đế đưa tay lên vuốt nhẹ mái tóc Hoàng Phi Bằng
nói :
― Trẫm muốn hôm nay làm lễ cáo Trời đất và đa tạ
sư phụ của điệt nhi, nhằm thay mặt Quốc sư Hoàng Hạc nhận lãnh trách nhiệm
"Nhân sinh" được không ?
Hoàng Phi Bằng vui mừng tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, lễ cáo Trời đất
Lac dân nghĩ không cần thiết lắm. Hoàng Phi tâu tiếp:–Ngày trước Tiên tổ đã
trình tấu lên Điện hạ, về nghi lễ cáo Trời đất và đa tạ sư phụ ở đây, hôm nay
Điện hạ là con trời chỉ cần để lòng thực hiện Bát sách "Nhân sinh" thật
tốt, đem lại phúc lạc cho muôn dân là ý trời đã chứng.
Vũ Đế chấp hai tay xoay thân rồng hướng về
Đông, đôi mắt ngó lên Trời khấn :
― Quả nhân xin hứa, Tiên tổ trên Trời chứng
giám hết lòng vì xã tắc, thực hiện đúng như sở nguyện .
Hoàng
Phi Bằng không còn ngại chấp tay tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, ngày mai một
phần kho tàng sẽ theo Hoàng thượng về Hoàng cung.
Vũ Đế vui mừng khôn xiết nói :
― Trẫm chính thức nhận trách nhiệm của Quốc sư
Hoàng Hạc, đúng là một chuyến đi mưu cầu Nam Việt thịnh vượng, Trẫm đích thân
hành sự làm đẹp cho đời, mong mỏi hôm nay và mai sau Nam Việt được quốc phú dân
cường, hơn cả Trung nguyên, người Hán không còn xem thường Bách Việt, đó là ước
nguyện từ lâu của Trẫm.
Nhân dịp này Hoàng Phi Bằng tâu:
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, tiệu thần bạo
phổi táo gan, muốn biết gia cảnh thời niên thiếu và thiên hạ đồng rằng Hoàng
thượng không phải là người Hán bởi vậy tiện thần không biết thực hư.
Vũ Đế tình thực nói tỏ bày :
― Đời riêng tư của quả nhân ở vào thuở ấu thơ và
phần gia thế chỉ nghe Mẫu thân nói mà không chính mắt thấy sự thật vì lúc ấy
còn nhỏ quá, Mẫu thân của quả nhân họ Lý tên Ánh Hoa, trước khi qui tiên nói rất
nhiều về thân thế của quả nhân, nhờ vậy mới biết gia phả đời trước, di ngôn của
Mẫu thân như thế này:– "Hài nhi nhớ, cội nguồn Lĩnh Nam là nơi lập nghiệp
của hài nhi, Tổ tiên U Việt là một trong dòng dõi chính thống Bách Việt. Lúc hài
nhi chào đời gia thế họ Tiêu tên Văn Đà, cháu của đại thần Tiêu Văn Ưng, con của
tam phẩm Tiêu Văn Nam.
Khi xưa nước U Việt bị Sở thôn tính, gia gia
hài nhi cầm binh đánh sở rồi tử trận, cả họ ly tán, khi ấy hài nhi mới được
chín ngày. Sinh ra đúng vào thời loạn chiến tranh, mẫu thân buộc lòng phải bồng
bế hài nhi chạy theo dòng nước vong quốc, xuôi về hướng Nam, không ngờ vào
cương giới Sở Hán lại cũng gặp chiến tranh ác liệt hơn, ở nơi này kẻ chết người
sống không còn phân biệt Việt, Hán, Sở địch hay thù.
Mẫu thân không còn ai để gọi hai tiếng thân
nhân, lưu lạc đó đây trên đất Hán hơn hai tháng mà vẫn chưa về Nam được, lại bị
mang bệnh nằm bên lề đường, lúc này bầu sữa nuôi hài nhi cũng cạn dần và những
gì có trước khi ra đi cũng đã hết sạch, khi ấy mẫu thân chỉ còn lại nụ cười
bình an của hài nhi, chính nụ cười này là niềm hy vọng để sống, hài nhi là hạt
châu cuối cùng của nhà họ Tiêu !
Vài ngày sau có người buôn tơ lụa họ Triệu ở đất
Chân Định đem về nuôi, từ đó hài nhi mang họ Triệu tên Đà. Mẫu thân nói tiếp:– Hài
nhi có lưu họ Tiêu trên vai Tả, còn trên vai hữu thì lưu U Việt, nay vẫn còn
đó".
Ngày tháng trôi qua đưa đẩy Trẫm đến đất Lĩnh Nam làm tướng quân, không ngờ quả nhân
nhớ lại di ngôn của Mẫu thân, khắc cốt ghi xương vào thân thể, thế là gặp được
Lạc Việt, trong ấy có cả người U Việt. Lúc quả nhân vào đến thành Phiên Ngung
đã có ý định tìm mọi cách qui nguyên Bách Việt.
Mỗi khi quả nhân có ý định qui nguyên Bách Việt
thì có tiếng văng vẳng lời dặn dò của Mẫu thân, thôi thúc trong lòng ý chí lập
quốc Nam Việt. Sau khi thành công quả nhân phong Mẫu thân tước hiệu Hoàng Thái
Hậu Lý Ánh Hoa thờ phụng Người như một đấng thiêng liêng của họ Tiêu.
Bài vị của Tiên Tổ tước hiệu Thần Tổ U Tiêu
Ưng, còn Tiên Gia tước hiệu Tiên Đế Việt Tiêu Nam .
Quả nhân trị vì Nam Việt đã bảy mươi năm nhưng
không dám cho một ai biết huyết thống Lạc Việt vì muốn bảo tồn Nam Việt. Từ bao
lâu nay người Hán muốn biết huyết thống của quả nhân, đến nay họ vẫn kết luận
là người Hán.
Cũng may Nam Việt thanh bình là do người Hán
không phát hiện gia phả của quả nhân, một ngày kia quả nhân qui tiên, dương
nhiên đem theo lời di ngôn của Mẫu thân chôn trong lòng, đó là gia tài riêng đối
với tình tự của một Lạc dân thảo, còn những thứ khác quả nhân để lại cho đời
phán xét. Nếu tâm ý có nói ra là chỉ để cho quả nhân nghe mà thôi !
Hôm nay Phi Bằng nhi hỏi về thân thế, dĩ nhiên
lòng chỉ mở ra cùng tâm đắc, bởi thế sách có câu: "Được lời như cởi tấc
son" quản nhân gửi sự sâu kính của một đời người nơi Phi Bằng nhi đó ! Cũng
để nhắc nhở Bằng nhi nhớ "Bách thiện
hiếu di tiên".
Nhân tiện Vũ Đế cho Hoàng Phi Bằng xem chữ Tiêu
và chữ U Việt. Đôi mắt chàng ngạc nhiên đúng là họ Tiêu, dân U Việt không sai,
chữ xăm bằng mực Hắc-dương, tuy hơi nhòa theo tháng năm thân thể già nua, thế
mà nét chữ vẫn còn đẹp, hùng chí, mai lệ, phóng bút tiêu sái, đảm khí nằm dưới
lớp da nhăn nheo thấy rõ.
Vũ Đế nói tiếp :
― Ngày nay thân thế của quả nhân chỉ có Phi Bằng
nhi biết trọn vẹn, ngoài ra không có người thứ tư, cho nên quả nhân biết chắc
chắn họ Triệu không phải là huyết thống của quả nhân.
Hoàng Phi Bằng vốn thông minh, giàu tình cảm,
khi nghe Vũ Đế trút hết bí sử đời mình, chàng hình dung tự hỏi:– Phải chăng từ
cổ vản kim lai, chỉ có một vị minh quân này sao ? Nỗi lòng chàng cảm động về
quá khứ của một Hoàng Đế đương thời cũng có sự khổ bình thường. Chàng xúc cảm
nước mắt chảy trên đôi má da mịn hồng, trong cổ họng nấc thành tiếng "ắc ắc"
đúng là cảnh đời quá thê lương ẩn trong một Hoàng đế.
Vũ Đế thấy vậy ôn tồn hỏi tiếp:– Quả nhân làm
cho diệt nhi khóc phải không ?
Hoàng Phi Bằng lấy vạt bào rồi lau nước mắt tâu
:
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, mỗi đời người
có riêng cảnh sống, nhưng cảm xúc được là nhờ tình người biết chia sẻ quá khứ,
biết rung động trong mọi khổ đau để tìm đến hạnh phúc, cũng như Điện hạ tìm hạnh
phúc cho muôn dân, mà đã trải qua môt cảnh sống không ai hiểu thấu. Điện hạ thực
hiện đúng lời thánh của Tiên Mẫu từ đó trui luyện trở thành một Hoàng Đế Nam Việt
ngày nay. Phi Bằng nhi xúc động vì hãnh diện có được một Hoàng đế trong lòng của
Lạc dân.
Vũ Đế khen thầm Hoàng Phi Bằng:– Rất tiếc không
còn thời gian để chiêm ngưỡng một thiếu niên họ Hoàng.
Sáng hôm sau Vũ Đế cùng Phi Bằng về Phiên Ngung
thành, với năm đại hạc chở theo ngũ kim, chàng còn tặng Vũ Đế cặp kiếm Thanh
Long, Huyết Hổ. Vũ Đế cùng chàng đến Ngung Sơn lập đồ trận "Cửu hoàng tỉ tổ"
từ nay lưu trữ ngũ kim tại Hành cung Ngung Sơn, cũng là nơi liên lạc bí mật với
Hoàng Phi Bằng.
Vũ Đế liền hạ chỉ :
― Phi Bằng hiền nhi từ nay chính thức thiết lập
biệt điện Hành cung tại Ngung Sơn, cũng là nơi phát động phú quốc.
Hoàng Phi Bằng vui mừng quyết định của hoàng
thượng, chàng tâu :
― Lạc thần tuân mệnh .
Nghe qua tưởng Hành cung kiến trúc đồ sộ, uy
nga, tráng lệ, rực rỡ, không ngờ biệt điện là một căn nhà lợp trang vách đất ba
gian chữ nhất, thực u nhã như một mái ấm gia đình Lạc Việt tọa lạc Ngung Sơn, về
những vật dụng sinh hoạt hằng ngày cũng như trang trí do Hoàng Phi Bằng lo tất.
Cũng đến lúc chàng từ giả Hoàng thượng tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, trăm câu ngàn
lời nhập lại chỉ một câu kính cẩn vấn an, Hoàng thượng bảo trọng.
Chàng xoay mình phi thân mất dạng, Vũ Đế rất
hài lòng cử chỉ của chàng thanh niên trẻ kỳ tài giúp ông khởi động mạnh trị
chánh triều đình, từ Ngung Sơn là nơi truyền chỉ dụ đến Lạc dân, khuyến khích thi
đua xây dựng đất nước phú cường, hai tháng sau thấy rõ sự phát triển thịnh vượng
từng ngày, trên mọi mặc cả nước Nam Việt.
Nội triều đình văn võ không ai biết chế sách
thi đua xây dựng Nam Việt xuất phát từ nơi nào. Đôi khi họ hỏi nhau ai là Quốc
sư việc này, chỉ biết mỗi ngày đất nước thịnh vượng mười lần hơn thời Quốc sư
Hoàng Hạc, riêng Thái tử Hồ chính thức điều động thân tín triều đình nắm chủ lực
Bát sách "Nhân sinh". Đến nay Bát sách đã phát triển thuận khắp cả
Nam Việt.
Lúc này Vũ Đế và Thái Tử Hồ nhớ Hoàng Phi Bằng,
muốn gặp để chia sẻ thành quả, nhưng không bao giờ gặp được, chỉ thấy đại hạc
chở ngũ kim đến, rồi bay về hướng Nam .
Hầu như mỗi ngày có hai con hạc nhỏ đưa tin về cho
Hoàng Phi Chỉnh, lần nào cũng cùng nội dung vấn an và cho biết sinh hoạt của
hai chị em Hoàng Lữ Thư, Hoàng Phi Bằng tại động Nam Khê Sơn .
Lần này trên đường đi Hoàng Phi Bằng suy nghĩ:–
Nhân đây ta về thăm gia đình, còn hơn trăm lần nhờ hạc đưa tin, một lần thăm
nhà gặp mặt gia gia, mẫu thân, hiền huynh, dẫu không nói lời nào thấy cũng an
lòng hơn, đó là tình thiêng liêng gia đình. Chàng vừa bước vào nhà gặp ngay
Hoàng Lữ Thư, trong lòng ngạc nhiên chưa kịp thưa trình gia gia, mẫu thân.
Hoàng Phi Bằng vội hỏi :
― Tỷ tỷ về nhà khi nào thế ?
Hoàng Lữ Thư đang miên man suy nghĩ khó nói nên
lời, miệng nàng mếu máo nói như đôi dòng châu muốn rơi, thực ra có ý để Hoàng
Phi Bằng cảm thông :
― Tỷ tỷ nhớ gia gia, mẫu thân và đại huynh vừa
về khi nãy, thăm viếng gia đình rồi đi trở lại động Nam Khê Sơn. Còn đệ khỏe
không, mọi việc tốt cả chứ, làm gì mà đi lâu vậy, tỷ tỷ nhớ đệ lắm ?
Hoàng Phi Bằng cười biết bà chị nói dối lòng,
chàng đáp :
― Nghe tỷ tỷ nói những lời như mật ong đã quá.
Hoàng Lữ Thư chẩu môi phùng miệng đùa bỡn :
― Tỷ tỷ và đệ cũng cùng một bệnh rồi, đi xa nhà
nhớ gia gia, mẫu thân, đại huynh, nhớ cả cây cột nhà này nữa, thôi hiền đệ vấn
an gia gia, mẫu thân rôi đi thôi.
Hoàng Phi Bằng cúi đầu thưa :
― Hài nhi kính bái vấn an sức khoẻ gia gia, mẫu
thân, đại huynh và tỷ tỷ.
Hoàng Phi Chỉnh thấy con mình đã lớn khôn cũng
lấy làm vui mừng nói :
― Hôm nay bất ngờ không hẹn mà cả nhà mình đoàn
viên, đúng là phúc lắm, gia gia, mẫu thân của tam hài nhi vẫn bình an, nói về sức
khoẻ với tuổi này đang trong kỳ sung mãn nhất. Hiện nay gia đình nội ngoại an lạc
cả, chỉ có ngoại Tổ yếu nhẹ, gia gia ước gì cả gia đình mình về thăm viếng ngoại
Tổ một chuyến.
Hiệp Phương Yến, nghe phu quân nói về thăm viếng
cha mẹ của mình, bà rất xúc động tỏ vẻ vui mừng, nhưng không để lộ ra ngoài, vì
bà biết đạo nghĩa "Xuất giá tùng phu" dù rằng nhớ cha mẹ cũng để
trong lòng.
Hoàng Lữ Thư bẽm miệng bẽm mép, đề nghị ngay :
― Thưa gia gia, mẫu thân hôm nay là dịp tốt thì
cả nhà mình về thăm ngoại Tổ chứ ?
Hoàng Phi Bằng cũng nói vào :
― Tỷ tỷ nói đung lắm, cả nhà mình đi liền hôm
nay kẻo sau này không có dịp về thăm quê ngoại, vả lại hài nhi cùng tỷ tỷ sẽ
còn nhiều việc phải làm, khi ấy ít về thăm gia gia, mẫu thân đó ạ .
Hoàng Phi Chỉnh đồng ý, nhưng ông suy nghĩ từ
đây đến Tây Trung thuộc Quế Lâm, quê của chuyết kinh (Lý Yến Hồng) phải mất đến
mười ngày đường vừa đi vừa về nói :
― Thôi được cả nhà lợi dụng trời mát mẻ tối nay
lên đường, vậy cả nhà dùng cơm sớm, rồi đem theo đồ dùng cá nhân, như vậy đi và
về mất hết nửa tháng.
Hoàng Phi Bằng tự nghĩ:– Nếu như đi xe song mã
thì mất hết thời gian của mình, bởi còn nhiều việc phải làm, tại sao mình đang
có đến bảy con đại hạc mà không sử dụng đến nó, đây cũng là một phương tiện tốt
tránh mọi trở ngại trên đường bộ, di chuyển đại hạc chỉ cần ngày đêm là đến nơi,
chàng cung tay thưa :
― Thưa gia gia, đi về quê ngoại Tổ bằng đại hạc
nhanh hơn, như vậy không cần phải đem nhiều vật dụng cá nhân, chỉ một ngày đêm
là đến Tây Trung.
Hiệp Phương Yến nghe Hoàng Phi Bằng nói vậy bà
vui mừng khôn tả, ký ức hiện về nhớ lại tất cả thời thơ ấu. Bà vội ôm ba người
con vào lòng âu yếm, biểu lộ tình mẹ con như biển cả, nụ cười hiền hòa trìu mến
bằng dáng điệu người phụ nữ đoan trang, cử chỉ giọng nói đúng như mẹ Việt trong
thi ca. Hoàng Phi Bằng được mẹ hôn nhiều nhất, riêng Hoàng Phi Khải có đi đại hạc
hay đi xe song mã cũng là đi không lấy gì lạ cả, chàng vui trong âm thầm nhớ
quê ngoại, đã lâu lắm mới được dịp về thăm ông ngoại, riêng Hoàng Lữ Thư thì
reo mừng hớn hở, vì thừa biết Hoàng Phi Bằng dùng đại hạc để phục vụ cho lý tưởng
Bách Việt, nay được dịp đi đại hạc là việc may chỉ một lần, có gì vui bằng bay
vào mây, nàng vốn có óc tưởng tượng cảnh sống như tiên nữ trên trời.
Hoàng Lữ Thư nói :
― Hiền đệ nói đúng lắm đi sớm về nhanh còn nhiều
việc phải làm.
Hoàng Phi Bằng biết ý của Lữ Thư nói :
― Như vậy đến rồi về cùng ngày được không ?
Hoàng Lữ Thư cười "hì hì" biết mình bị
bể mánh, bởi hiền đệ hiểu được ý, nói đùa :
― Thôi, tỷ tỷ đổi ý rồi, không đi thăm ngoại Tổ
nữa, bổn cô về lại động Nam Khê Sơn hôm nay.
Hoàng Phi Bằng mỉm môi :
― Ôi kìa tiên nữ ơi, đừng bỏ chuyến đi này, dù
có một ngày cưỡi đại hạc cũng là tiên nữ xuống trần gian, một dịp may không trở
lại. Tỷ tỷ có biết không một khi được dịp may thì được hoài, không gọi mời nó
cũng đến, dẫu mà tỷ tỷ chối từ nó cũng gọi.
Hiệp Phương Yến hiểu thấu tình mẫu tử và tính từng
đứa con:
― Thảo nào sách có câu: "Tình mẹ con vốn
là thiên nhơn luân thiên tánh" dừng lại một hơi thở rồi nói tiếp:– Khải
nhi tính thư sinh giống y đúc như gia gia, còn Thư nhi tính lém lỉnh như cô mẫu
Hoàng Lữ Trinh, Bằng nhi tính như Gia ông, cũng rất may chúng hài nhi biết
thương nhau, đã từng ấy tuổi học được tinh thần tôn tộc Bách Việt.
Hiệp Phương Yến đi xuống nhà sau, nửa khác sau
lên, miệng cười nói :
― Thưa tướng công, cùng tam hài nhi vào dùng
cơm.
Cả nhà ngồi vào bàn cơm Hoàng Phi Chỉnh trầm âm
nói :
― Đã lâu lắm cả nhà mình mới được đoàn tụ, tam hài
nhi có biết nhờ ai mới có bữa cơm này không ?
Hiệp Phương Yến vui hơn mọi ngày bà nói đùa :
― Trên trời có trăng tròn, dưới đất có đoàn
viên, tất cả nhờ tướng công.
Hoàng Lữ Thư không đồng ý thưa :
― Thưa mẫu thân, phải nói nhờ mẫu thân mới đúng
chứ, nếu không có mẫu thân thì ai sinh chúng hài nhi.
Nhân ngày vui Hoàng Phi Chỉnh hứng thú nói :
― Mẫu thân của tam nhi nói đúng đấy, người đời
có câu "Mẹ cha bú mớm nâng niu, tội trời thì chịu không yêu bằng chồng"
chữ chồng quan trọng lắm đấy Thư nhi à.
Hoàng Phi Bằng la lên :
― Đúng rồi, gia gia nói không
sai, ngày nào đó trong nhà này cũng có người vì chữ chồng như ai đó, rồi họ
cũng hạnh phúc như thế này "hì hì".
Hoàng Phi Khải cười nói :
― Tạo hóa ra thế gian này có nam
nữ, đực cái, trống mái đó là lẽ tự nhiên, cũng như gia đình mình điểm khởi đầu
từ một có hai, rồi hóa thành ngũ trở thành hình thể trong một gia đình, sau này
cứ thế mà sinh mãi mãi, quan trọng nhất là từ một mới có hai, hạnh phúc ở điểm
khởi đầu đó vậy.
Hoàng Lữ Thư hài lòng nói :
― Ừ nhỉ đại huynh nói hay quá, thế
thì đại huynh bao giờ khởi đầu từ một mới có hai ?
Cả nhà đồng cười, buổi cơm được kết
thúc, chuẩn bị lên đường. Hoàng Phi Bằng ra lệnh năm đại hạc đáp xuống trước
sân nhà, năm người cưỡi hạc bay vào không trung, canh năm hôm sau đại hạc đã
vào địa phận Tây Trung chỉ còn nửa khắc là đến nhà.
Từ trên cao năm người đã thấy trước
nhà đang có một trận chiến, bốn mươi người lạ mặt bao vây ba người.
Lý Yến Hồng la lên :
― Đúng là gia gia, đại huynh Lý Yến
Bồ cùng hiền đệ Lý Yến Hùng đứng trong trận. Hoàng Phi Bằng nghe mẫu thân nói,
chàng liền xuất bộ pháp "Châu thanh minh" đứng vào trận, mọi người ngạc
nhiên không biết từ đâu trên trời rơi xuống một thiếu niên hiên ngang cùng đâu
lưng với ba người nhà họ Lý, lão Lý Đại Châu cũng lấy làm ngạc nhiên, thấy thân
pháp phi thường, cốt cách đôi lưng cũng như người đồng đạo, trong suy nghĩ của
lão:– Có lẽ thiếu hiệp này có lòng tốt đến trợ lực cùng với mỗ, cũng may có người
nghĩa hiệp giúp sức, nhưng không hiểu võ học là bao, mà dám gánh việc giang hồ,
hy sinh cho người khác nhất là không quen biết !
Lão tiên sinh Lý Đại Châu nói :
― Thiếu hiệp để lão phu ra tay
trước rồi hãy tính sau.
Hoàng Phi Bằng cúi đầu theo dấu
hiệu đồng ý, lão ông sử dụng pho kiếm pháp "Hồng Tử Phù" mười hai
chiêu, bảy mươi hay thức, vốn kiếm pháp võ học gia môn xuất thần nhập thế của mẫu
thân. Hoàng Phi Bằng thấy lão ông thân cốt, như bay trong gió, từ ngạc nhiên
này đến ngạc nhiên khác, như vóc người mỏng manh, thân cao ốm, với nước da trắng
nhợt một cách lạ lùng, như lão tiên ông chưa từng biết đến ánh nắng mặt trời,
giọng nói nhẹ nhàn, hiền hòa đầy vẻ khiêm nhường nhưng lòng kiên cường.
Hoàng Phi Bằng liên tưởng:– Đây có
phải là vị tu tiên ở núi Thất Sơn ư, nơi mà mỗ từng có dịp tá túc một đêm mưa tầm
tã. Quả thực không sai chính là lão ông này, lý nào đây là ngoại tổ của mình,
trải qua sáu năm gợi lên được cái quá khứ đầy huyền thọai về lão phu trong động
Thất Sơn, mà người đời truyền tụng biệt hiệu "Nhân gian khách".
Không đầy hai khắc kiếm pháp của
lão ông đã lấy bốn cánh tay của địch thủ, cũng vừa lúc ấy bốn người từ đại hạc
phi thân xuống đất vào trung tâm vòng vây tổng cộng tám người, tất cả nhận diện
ra là con cháu về thăm gia đình lại bị cảnh ngộ không may.
Đối với địch thủ thì không hiểu
năm nhân thủ này là ai, từ đâu đến mà dám can dự vào giang hồ.
Hoàng Phi Bằng thấy bốn mươi cao
thủ đằng đằng sát khí, tuy có hai người mất bốn cánh tay mà địch thủ vẫn muốn
ăn thua đủ, vòng vây lúc này siết chặt lại một bước chân.
Hoàng Phi Bằng lên tiếng :
― Xin lỗi quí huynh đài, tại hạ đề
nghị hòa cuộc chiến đi, đừng thù hận làm gì. Tất cả hãy sống tha thứ cho nhau
thì cái cố chấp sẽ hóa thành vui, tại sao quí các hạ không chén tạc, chén thù
thì hay biết mấy !
Đảng trưởng Nguyễn Chí Tùng hất
hàm lên tỏ ý kiêu ngạo :
― Mỗ đến đây là để trả thù nhà họ
Lý, các hạ là ai mà dám bước vào sân chơi giang hồ của mỗ, hãy lui ra đừng xem
thường võ nghiệp của mỗ nhé.
Hoàng Phi Bằng nghiêm nghị trả lời
:
― Quí tiên sinh, lão tổ có thù gì
với họ Lý ?
Nguyễn Chí Tùng hất hàm cười ngạo
mạnh nói :
― Tiểu tử hãy hỏi lão Lý Đại Châu
thì biết, thù này không phải nhỏ, đã hai mươi hai năm rồi nay mới được dịp trả
thù, mỗ qui tụ anh hùng đến đây để rửa hận, mỗ chỉ mời một Nhân Gian Khách đi
thăm Diêm vương.
Lý Đại Châu nhỏ nhẹ lên tiếng :
― Thưa quí các hạ, sao cố chấp thế,
hôm nay đến đây để toan báo thù sao. Thù chi mà mù quáng thế, mỗ từ xưa đến nay
có bao giờ khích nộ ai đâu, chưa hề muốn gây sự với đời. Chẳng qua mỗ đi Thủ Thừa
viếng thăm một đại huynh thâm giao, ngờ đâu đến nơi gặp phải quí các hạ giết chết
cả nhà mười sáu người, riêng đại huynh của mỗ cũng bị sáu vết thương, chưa đến
nỗi phải chết, mỗ thấy tình thủ túc gặp tai nạn thì phải ra tay cứu, ở vào tình
trạng của quí các hạ thì khoanh tay nhìn ngó thế sự mà không đau lòng ư, thế
thì anh hùng hảo hán cất cái lương tâm làm người ở chỗ nào. Mỗ giết hai đại
huynh của các hạ, cũng chẳng qua là để bảo vệ mạng sống cho đại huynh của mỗ mà
thôi, dù mỗ đã giết hại thì làm sao bằng thân nhân của mỗ chết đến mười sáu người,
mỗ không kết thù vì người đời có câu "Mình mà không muốn điều gì thì đừng
bắt người khác phải chịu", thế mà quí các hạ để bụng chờ đến hôm nay báo
thù ! Thôi cũng được mỗ chấp nhận dù chết sống cũng trống mái một trận. Lý Đại
Châu nói tiếp:– Các hài nhi không được động thủ nhé, chỉ một mình gia gia cũng
đủ quét sạch đám sống bẩn làm thối xã hội.
Hoàng Lữ Thư thấy ngoại tổ đã cao
tuổi mà còn chí khí anh hùng, nàng vui mừng nói với đảng trưởng Nguyễn Chí Tùng
:
― Tại hạ xin hỏi, những lời của
ngoại tổ vừa nói như thế có đúng không. Khi đã rõ thì đôi bên giương vây, múa
vuốt cũng chưa muộn màn, phải không quí lão tiên sinh ?
Nguyễn Chí Tùng thừa nhận nói :
― Đúng thế, đảng trưởng chính là
mỗ đây, đã giết mười sáu người nhà họ Trịnh, nhưng mười sáu người đó không thể
nào giá trị bằng nhị đại huynh của mỗ, đã bị chết dưới tay của họ Lý, vậy nay họ
Lý có bao nhiêu người mỗ giết hết, có như thế mới đúng luật giang hồ.
Hoàng Lữ Thư không muốn ngoại tổ
bẩn tay, nàng gằn hai tiếng "hừ hừ" :
― Tại hạ nghe luật giang hồ tự bịa
của các lão xem ra quá điên cuồng rồi, xin mời quí các lão vào cuộc chơi giang
hồ điên đảo, à xem ra đảng trưởng Nguyễn Chí Tùng đã chán sống trong giất mộng
giang hồ rồi. Nàng nói tiếp:– Phi Bằng hiền đệ đưa cả nhà ra khỏi vòng vây, để
tỷ tỷ cho bốn mươi thủ cấp chào lục phủ ngũ tạng, cả bọn đảng này hôm nay gặp bổn
cô nương xem như đã chán sống.
Đảng trưởng Nguyễn Chí Tùng đưa
tay vuốt râu cười "há hà" có vẻ xem thường lời nói của Hoàng Lữ Thư,
với thân hình nữ mảnh khảnh.
Nguyễn Chí Tùng lớn tiếng :
― Này con nhỏ tí tẹo kia, có bao
năm hơi mà làm như ở trần thế này vắng vẻ khách giang hồ.
Lý Đại Châu cười thầm, thấy Lữ
Thư của mình cũng khá lắm, tuy mỗ chưa biết võ học của điệt nữ đã đến đâu,
nhưng cử chỉ này cho biết cốt chất khá lắm, ông để lòng vui.
Hoàng Lữ Thư ngó về hướng Hoàng
Phi Bằng bảo :
― Bằng hiền đệ đưa cả nhà ra khỏi
vòng vây.
Lý Đại Châu tự nghĩ thì ra Phi Bằng
điệt nhi đây à, tuấn kiệt thật, đúng là sư phụ của bảy mươi hai đệ tử trong Cần
Lĩnh Nam, nhưng mỗ chưa hề thấy qua võ học của Hoàng Phi Bằng, cũng chưa hề
nghe giới giang hồ đã có người tỷ đấu với Phi Bằng điệt nhi của mỗ bao giờ, ở đời
đôi khi cũng có tiếng đồn mà không có miếng võ học nào, tuy vậy ông vẫn tin
Hoàng Phi Bằng đúng như tiếng đồn xa gần, vì vừa rồi đã thấy bộ pháp là đủ biết
có thực tài, nhưng không biết võ học đã đến đâu, nếu bình thường mà nói chỉ cần
võ học đủ để bảo vệ bản thân đó mới là quan trọng.
Tất cả đồng đảng Nguyễn Chí Tùng nghe
một tiếng gió thổi vèo qua trước mặt, thấy như những lá vàng từ từ rơi xuống đất,
không biết từ đâu đến, chỉ thấy cả nhà họ Lý biến mất, bốn mươi đồng đảng ngạc
nhiên vô cùng, lúc này mới thấy bảy người họ Lý đứng ngoài xa hướng về vòng vây
cách ba trượng.
Còn về Lý Đại Châu, Lý Yến Bồ, Lý
Yến Hùng, Hoàng Phi Chỉnh và Lý Yến Hồng, cũng không biết nguyên nhân nào mà cả
nhà ra khỏi vòng vây, khi trên không trung, ai cũng nghe được tiếng gió
"vù vù", từ trên cao nhìn xuống đất tưởng chừng không toàn thân, có
tiếng thở dài thay lời trăng trối, thôi rồi chết mất, sau khi đáp xuống đất nhẹ
nhõm mới biết một hấp lực tinh diệu của Hoàng Phi Bằng dụng bộ pháp "Thời
thừa lục long" trong "Thiên Đế Pháp" chiêu thức này như trò chơi
mỗi ngày của Hoàng Phi Bằng, cho nên không dùng đến nội lực mà nhấc được cả bảy
người vào không trung, ai cũng nhìn Hoàng Phi Bằng có ý hài lòng.
Hoàng Phi Khải suy nghĩ:– Ở trong
hay ra ngoài vòng vây cũng thế thôi, tuy được nhấc lên không trung, đáp xuống đất
cũng là sự di dịch bình thường, không lấy việc gì làm bối rối, thế mà lòng ta
cũng cảm động, thấy hiền đệ của mình may mắn hưởng được võ học tuyệt luân.
Mọi người thấy trong vòng vây chỉ
còn lại Hoàng Lữ Thư, tay đang cầm kiếm đứng hiên ngang không hề nao núng.
Hoàng Phi Bằng hiểu được mọi người đang lo cho tỷ tỷ, nhất là ngoại tổ :
― Thưa ngoại tổ an tâm, tỷ tỷ của
điệt nhi sẽ cho bốn mươi thây ma đi chung một đường vào Diêm vương.
Trong gia đình ai cũng biết Hoàng
Phi Bằng võ học siêu quần, như khi có dịp vẫn phải hội ý với Hoàng Phi Khải. Chàng
xoay qua hỏi Hoàng Phi Khải :
― Đại huynh có biết chiêu thức vừa
rồi không ?
Hoàng Phi Khải ngạc nhiên để
trong lòng :
― Đó là chiêu thức "Thời thừa
lục long" trong bộ pháp "Thiên Đế Pháp". Hiền đệ à, huynh đã đọc
thuộc bài kệ Nam Ai này, nghe đây nhé "Đại la thiên đế v.v..."
Hoàng Phi Bằng khen :
― Đại huynh của tiểu đệ tài thật,
nhưng sao không vận khí ?
― Huynh có sử dụng đến chứ, phải
dùng đúng chỗ mới phát huy bản năng của riêng mình, nhất là phù hợp nguyên khí
mới thành công, cũng còn tùy cốt tính của mỗi người mà tập luyện nữa chứ, đôi
khi có người đọc lời âm hay, thuộc làu làu nhưng không hiểu một tí nào cả, suốt
cả đời đọc nội dung mà không biết ngụ ý bài quyết này là gì ! Đó là những người
vô dụng, hiền đệ gặp may, nhờ thông minh, như thế là huynh vui lắm rồi.
Trong vòng vây, Hoàng Lữ Thư có ý
niệm dùng pho kiếm pháp họ Lý "Hồng Tử Phù" một trăm lẻ tám thức bảy
chiêu, cho họ thấy đừng xem thường kiếm pháp họ Lý, cùng lúc xuất "Phong hỏa
gia nhân", chiêu tốn tượng theo gió, gió từ lửa ra, lửa mạnh thì gió sinh,
gió sinh lửa từ trong xuất phát.
Bốn mươi đồng đảng khoái chí hò
reo, nghĩ rằng con nhỏ tí tẹo này toàn thân sẽ không còn nguyên vẹn, chỉ chờ đảng
trưởng ra lệnh là tấn công.
Nguyễn Chí Tùng lên tiếng :
― Tiến lên, hạ thủ con nhỏ chí
mén này trước đã, rồi mới đến cả bọn họ Lý, nào hãy tiến vào.
Lý Đại Châu, Lý Yến Bồ, Lý Yến
Hùng, Hoàng Phi Chỉnh, Lý Yến Hồng và Hoàng Phi Khải thấy rõ rành rành một trăm
lẻ tám thức bảy chiêu, không thêm bớt một chiêu thức nào cả, chiêu thức xuất ra
kịch liệt, thức số nối liền không sơ hở, biến thế nhanh cực kỳ, thân hình hóa rồng
bay lên xuống, ngang dọc, đang vồ hai mươi trái châu, hai tà bào lung linh trước
gió tuyệt ảo như tiên nữ xuống trần, võ học "Hồng Tử Phù" quả là diệu
kỷ, chiêu pháp của Hoàng Lữ Thư làm cho cả nhà khâm phục, không ngờ võ học của
Hoàng Lữ Thư đã đến trình độ xuất thần nhập thế, quả là một nữ kiếm kỳ tài. Lý
Yến Hồng tâm đắc nữ nhi vô cùng, thầm nghĩ:– Nữ nhi mới xa nhà gần năm mà võ học
hơn cả mụ ư.
Hoàng Lữ Thư vừa đáp chân xuống đất,
đứng tại trung tâm vòng vây, đồng đảng Nguyễn Chí Tung, cả nhà họ Lý chứng kiếm
thấy từ một thủ cấp đến hai, cứ thế tiếp theo hai mươi thủ cấp rơi xuống đất,
thủ cấp rơi xuống, có điềy hay là ở chỗ, cứ cách nhau một địch thủ là một thủ cấp
rơi, không khác nào chiêu thức con mèo vồ bầy chuột mù.
Lúc này địch thủ mới biết con nhỏ
tí tẹo này tay kiếm không phải là thứ bở, võ học họ Lý không phải là tầm thường,
mới chỉ một chiêu thế công mà đã từng ấy thủ cấp bị rơi.
Hồi nãy lão họ Lý đã cảnh cáo, mới
lấy bốn cánh tay, ý họ Lý đã tha tội hận thù không biết phải trái, thế mà Nguyễn
Chí Tùng cố chấp cho nên mới ra thảm cảnh này ! Tỷ như lão Lý Đại Châu thực
tình ra tay có thể bốn mươi thủ cấp không còn thời gian để ngáp gió !
Đồng đảng khiếp sợ nhưng chưa biết
phải rút lui hay là tiến vào, tuy vậy đảng trưởng Nguyễn Chí Tùng không phải là
tay tầm thường, lên tiếng bảo :
― Quí huynh đệ, trống mái một trận,
không lẽ nào đời ngang dọc giang hồ nay phải thua con chí mén này hay sao, tiến
vào mới hy vọng còn cơ may tên tuổi ở trên giang hồ.
Nguyễn Chí Tùng miệng cứng lòng
đã mềm lo sợ, tuy khẩu nói quyết chiến mà lưỡi líu quýu, tay chân cũng đã vụng
dại không khác nào con rắn bị gãy xương sống lưng.
Lỡ lầm của Nguyễn Chí Tùng là đứng
trước nỗi khó lui chân, không thể nào để mất sĩ tiết, đó là nguyên nhân miệng
phải hùng hổ đỡ tay chân.
Hoàng Lữ Thư cười "ha
hà" :
― Thưa đảng trưởng đã biết sợ kiếm
pháp nhà họ Lý của mỗ chưa ? Giờ này các hạ mới chịu lò ra cái tính bất lương,
tà dị thì đã muộn màn rồi "ha hà", đã đến nước này mà miệng chưa phục
tại hạ ư, được tại hạ tiếp tục mời hai mươi bất lương, tài hèn ra tay trước
đi ?
Nguyễn Chí Tùng xám xì mặt lại,
giương nanh múa vuốt xuất song kiếm mười hai thành công lực, cùng mười chín cao
thủ còn lại cố siết chặt, vòng tròn dần dần nhỏ lại, trong trận chiến địch thủ
xem như sống chết bất cần, kiếm pháp của hai mươi cao thủ đã xuất toàn lực,
không khí trở thổi gió "vù vù" vào tai nghe khiếp đảm, trong ngoài trận
đồng thấy cảnh tượng nguy hiểm, chưa biết phân thắng bại về ai, chỉ thấy kiếm
pháp của bọn dư đảng đã trên thế thượng phong.
Hoàng Lữ Thư vẫn bình thản chưa
xuất chiêu, hai mươi dư đảng kết lại thành tường sắt, cách Hoàng Lữ Thư một trượng
bán kính, dư đảng áp cận thành trì đẩy Hoàng Lữ Thư đứng trong tử huyệt, không
khác nào như thân xác chuẩn bị thành thịt xương trăm mảnh. Nàng vẫn chưa xuất
chiêu làm cho mọi người nín thở, hồi hợp, cả bọn dư đảng lên tinh thần, thấy phần
sống khôn thác thiêng của con chí mén Hoàng Lữ Thư đã đến hồi kết thúc.
Cả nhà họ Lý ai cũng lo sợ cho
Hoàng Lữ Thư, riêng Hoàng Phi Khải thì không có gì lo cả, vì thừa biết trước
sau gì Lữ Thư cũng phải xuất chiêu pháp "Phóng hỏa địch nhân" chiêu tốn
gió thượng thừa, gió từ lửa xuất mạnh, lửa bảo thì gió sinh, gió sinh thì lửa từ
trong phát động. Chàng suy nghĩ thầm: – Đương nhiên Lữ Thư phải biết "Lôi
địa du" chiêu yên hòa, sấm động với đất, sấm xuất từ đất khí dương giao
hòa khai phát, chỉ cần nhất chiêu, thất thức là chung quanh năm mươi thước trở
thành đồng khô cỏ cháy.
Hoàng Phi Bằng đương nhiên biết tỷ
tỷ của mình có ý dụ địch đến gần chỉ cần một chiêu là đủ thắng. Lý Đại Châu vốn
thương con cháu, võ học hơn bọn dư đảng nhiều mà đứng ngó cháu mình chết thì
không đành, ruột gan đã nóng, đứng ngồi không yên, ông nói thầm:– Mỗ không muốn
cháu phải chết một cách vô cố, không ai ngờ ông phi thân vào trận.
Hoàng Phi Bằng còn nhanh hơn ngoại
tổ trăm lần, đưa tay ra với xuất một kình lực rất nhẹ làm Lý Đại Châu đứng lại,
như chạm phải bích tường, không phi thân được.
Hoàng Phi Bằng sợ phạm thượng
thưa :
― Thưa ngoại tổ, điệt nhi xin ngoại
tổ xá tội, tỷ tỷ rất thông minh chỉ một chiêu thôi là kết quả.
Lý Đại Châu nhìn Hoàng Phi Bằng
mà trong lòng bất an nói :
― Điệt nhi, không thấy cái chết
trước mắt của nữ Thư cháu ngoại của Tổ sao, đến lúc này mà chưa xuất chiêu thì
chờ bao giờ mới thắng chúng.
Hoàng Phi Bằng biết nhãn lực của
ngoại tổ cũng thuộc vào cao thủ võ lâm, mới thấy được chiêu pháp của địch thủ lợi
hại, như đang chuẩn bị vồ được chuột. Hoàng Phi Bằng cung đôi tay thưa :
― Thưa ngoại tổ, tỷ tỷ là bà sư tử
cái đó, chứ không phải là con chuột đâu, ngoại tổ an tâm, bà sư tử này chơi trò
dụ địch đến gần, đố ai mà đụng đến được sợi tóc Thư nữ của ngoại tổ.
Trong trận dư đảng Nguyễn Chí Tùng
cùng Hoàng Lữ Thư đã có tiếng kiếm nổi lên "keng keng", tiếng gió
"vù vù", tiếng la gào thét như giặc cầm thú trong rừng.
Lúc này Hoàng Lữ Thư mới chịu xuất
kiếm pháp họ Hoàng tinh tuyệt, chiêu "Lôi địa dư" thấy qua như cảnh sống
yên hòa, thế mà sấm động đất vang dội "ào ào", khi sấm xuất từ đất
khí dương giao hòa khai phát.
Hoàng Phi Khải dự đoán không sai,
khi Hoàng Lữ Thư xuất chiêu thì cả nhà đồng biết đó là võ học họ Hoàng, chỉ một
chiêu trong trận phát ra hai lần tiếng "ầm...ầm..." vang động long trời
lở đất.
Từ xa, cả nhà ai cũng chứng kiến
cảnh trời đất nổi cơn gió bụi mịt mù, tung bay mười phương, tám hướng, không biết
Hoàng Lữ Thư có toàn thân không, trong bụi mịt mù của đất cát ấy, từ từ có một
bóng người đi ra hiện rõ chính là Hoàng Lữ Thư, trên tay cầm lòng thòng một
thân người trụi lũi tay chân, cả nhà ngạc nhiên, không biết đó là ai, bởi một lớp
đất vàng bám vào mặt, không thấy máu chảy cũng lạ, ai có ngờ Hoàng Lữ Thư đã bế
tất cả huyệt đạo, xem ra đây là cục thịt sống, đầu thì niểng qua một bên.
Tên phế nhân này xem ra rất khó
coi, Hoàng Lữ Thư lấy một gàu nước lạnh tạt vào mặt, ai cũng "ồ"
thành tiếng, thì ra Nguyễn Chí Tùng.
Sau khi đất cát bụi mù lắng xuống,
không thấy cảnh xác địch thủ ngổn ngang, vì trước khi Hoàng Lữ Thư ra khỏi bụi
mịt mù đã chôn dưới lòng đất cất tất cả ba mươi chín tử thi vào một huyệt tập
thể. Cả nhà trải qua một buổi gian truân, bây giờ mới thực sự thở phào nhẹ
nhõm, dứt nợ thù oán vu vơ.
Lý Đại Châu gọi Lý Yến Bồ :
― Hài nhi đưa Nguyễn Chí Tùng vào
nghỉ tạm tại thư phòng nhé, sau đó hài nhi đi làm một ống thụt bằng cây tre già
độ hai tấc đem về đây cho gia gia.
Lý Yến Bồ chấp tay vâng lời :
― Dạ gia gia, hài nhi tuân lệnh.
Lý Yến Bồ chào cả nhà, hẹn gặp lại
chiều nay. Tình nghĩa huynh đệ mới gặp chưa kịp vui mừng phải tuân lệnh gia gia
đi ngay, không cần phải hỏi lý do, phi thân lên lưng tuấn mã, lông bóng mượt,
thân hình cao lớn, bộ yên cương vàng nhạc bạc.
Hoàng Phi Khải khen thầm:– Đúng
là tráng sĩ họ Lý. Lý Đại Châu đã từng sáng chế ra ống thụt bằng tre, như một
phương tiện tự sử dụng vào việc ăn cơm và uống nước của những người tàn phế hai
tay, hai chân. Lúc này tất cả đã vào sảnh đường, Lý Đại Châu muốn nghe những mẫu
chuyện đời sống thịnh suy gia đạo của Hoàng triệu phủ, ông hỏi :
― Gia đình mình lâu lắm mới đoàn
tụ, vậy nay lão gia muốn biết đời sống gia đạo của Hoàng triệu phủ có khá hơn
trước không? Hoàng Phi Chỉnh khoanh tay thưa :
― Thưa gia phụ, cả nhà cũng bình
an cả, Khải nhi thì còn ở nhà, Thư nữ và Phi nhi thì đi ra ngoài thỉnh thoảng mới
về nhà, tuy vậy mỗi ngày vẫn có liên lạc với nhau, lần này về thăm gia đình
không chuẩn bị trước, chỉ thuận dịp là đi ngay. Chúng hài nhi ở xa nhà cho nên
lúc nào cũng cầu nguyện nhạc phụ, cả gia đình quí đại huynh, đệ cùng các điệt
nhi mạnh khoẻ, bình an.
Lý Đại Châu muốn hỏi về võ học của
ba cháu ngoại. Hoàng Phi Chỉnh và Lý Phi Hồng thay nhau kể hết cho gia gia cùng
cả nhà đồng nghe, ông rất hài lòng ba đứa cháu ngoại.
Lý Phi Bồ về đến nhà đưa ống thụt
tre cho Lý Đại Châu, cũng là lúc chuẩn bị dùng cơm tối vui mừng đoàn tụ gia
đình, Lý Đại Châu làm một phần cơm cho vào ống thụt tre, rồi đích thân lên lầu hướng
dẫn Nguyễn Chí Tùng cách thức sử dụng ống thụt này để ăn cơm uống nước
nói :
― Thưa đại huynh, mỗ tặng vật này
để sử dụng vào việc ăn cơm, uống nước lúc đầu thấy khó nhưng vài ngày sau sẽ
quen. Nguyễn Chí Tùng lòng hổ thẹn vô cùng. Ông tự trách thầm:– Tự mình gây
nghiệp thì nay phải trả sòng phẳng, không trách được Lý Đại Châu, nhưng rất tiếc
một điều là võ học đã bị con nhỏ họ Lý phế hết rồi, cho nên bây giờ muốn tự vẫn
cũng không có cách nào mà thực hiện được, nay có sống cũng như chết, nào còn
tham sống.
Nhưng bao tử bảo phải ăn, ông
cũng tức cười cái ống thụt tre có chân kỳ diệu, hình dạng như một cái ống tre đựng
nước, muốn ăn chỉ cần lấy miệng ấn xuống là cơm lòi ra.
Lý Đại Châu nói tiếp :
― Nguyễn huynh, đây là cơm đạm bạc,
cả nhà tại hạ cũng dùng như vậy, hy vọng Nguyễn huynh hài lòng, tại hạ không biết
dùng rượu lạt để thù tạc với Nguyễn huynh, xin tha thứ cho. Nguyễn Chí Tùng ăn
thử thấy hợp khẩu vị lắm, khen thầm:– Mình
chỉ cần ăn cơm trắng thôi cũng đủ thấy khoái khẩu rồi nói:
― Đa tạ đại huynh cho mỗ bữa cơm có
đạm bạc và lòng nhơn từ lớn.
Lý Đại Châu gật đầu rồi đi xuống
sảnh đường. Ông hỏi Hoàng Phi Chỉnh:
― Hoàng triệu phủ về thăm nhà bao
giờ mới trở lại Cửu Chân ?
― Thưa nhạc phụ, mỗi lần đi là mỗi
lần khó, vì vậy Nương tử hài nhi xin ở lại phụng dưỡng nhạc phụ nửa tháng, rồi
sau đó đi thăm Tổ phụ Lạc Việt Vương.
Lý Phi Bồ, Lý Phi Hùng nghe Hoàng
Chỉnh thưa như vậy rất là vui mừng. Tình huynh đệ muội của họ Lý từ ngày ra ở
riêng gặp lại nhau rất ít, hôm nay ở đến nửa tháng thì tha hồ mà tâm sự, huynh
đệ Ly Phi Bồ vốn rất thương mến Hoàng Phi Chỉnh, rồi nói :
― Hoàng muội tế, ở chơi một tháng
hay nửa tháng cũng được đừng về gấp, Huynh đệ mình ít có dịp gặp nhau như thế
này lắm, ở đây hàn huyên cho thỏa lòng rồi về không muộn, có nhiều việc luận
bàn như võ học, đời sống, xã hội v.v... Hoàng Phi Bằng nghe gia bá Lý Phi Bồ
nói vậy thì không an tâm, vì mỗi người có một hoàn cảnh riêng ở đây lâu quá thì
khó cho mình, nên Hoàng Phi Bằng đề nghị :
― Thưa Ngoại tổ, quí gia bá, gia
gia, mẫu thân. Phi nhi cùng tỷ tỷ tối mai phải về, mười lăm ngày sau sẽ trở lại
đón gia gia mẫu thân cùng đại huynh đi thăm Hoàng Tổ đường, rồi sau đó trở lại
đây một lần nữa mới về Cửu Chân, như vậy đúng một tháng. Cả nhà đồng ý đề nghị
của Hoàng Phi Bằng, nhân tiện cháng hỏi Hoàng Phi Khải :
― Tiểu đệ cùng tỷ tỷ nhờ đại
huynh ở đây hầu hạ ngoại tổ quí gia bá, gia gia, mẫu thân nhé ?
Hoàng Phi Khải lúc nào cũng
thương em cho nên chìu ý là việc thường tình chàng xem như bổn phận, liền
đáp :
― Ngu huynh lúc nào cũng lo lắng
sức khoẻ của muội và đệ, ngu huynh ở gần gia đình đó là nhiệm vụ mà, miễn sao
gia đình bình an là huynh đây vui lắm rồi, các muội đệ tự nhiên đi và đến.
Sáng hôm sau Hoàng Phi Bằng,
Hoàng Lữ Thư cáo từ cả nhà, hẹn ngày tái ngộ. Cả hai phi thân lên hạc đi về Nam
Khê Sơn. Trên đường về Hoàng Lữ Thư luận võ học với Hoàng Phi Bằng :
― Theo tỷ tỷ thấy, Khải đại huynh
không am hiểu võ học, cho nên không luận gì cả, ví dụ những chiêu thức kiếm
pháp họ Lý, họ Hoàng trong lúc tỷ đấu với dư đảng Nguyễn Chí Tùng.
Hoàng Phi Bằng nghĩ thầm:– Tỷ của
mình không hiểu gì về ông hiền tài Hoàng Phi Khải rồi, đúng là tài nhân văn võ
lưỡng toàn ở bên cạnh mà không biết, người văn võ tuyệt đỉnh rất khiêm tốn, chỉ
xuất hiện đúng thời cần thiết, xử thế đúng theo phép, thân thể ngoài tịnh trong
động khác hơn người, kiến thức nhãn lực của tỷ mình chưa đạt đến trình độ để hiểu
đại huynh, cho nên chỉ thấy ngoại thể mà không thấy nội tâm.
Hoàng Phi Bằng cười nói :
― Thưa tỷ, đại huynh là một hình
bóng quang âm đáng để tiểu đệ kính phục, có ba điều mà tiểu đệ không thể đem ra
luận hết được, đó là văn, võ và hiếu.
Lữ Thư có ý chê :
― Đại huynh đúng là văn hay võ dốt,
cũng là mẫu người tầm thường, tỷ cùng đệ thua đại huynh điểm hiếu mà thôi. Nàng
nói tiếp:– Hiền đệ chỉ luận đúng về hiếu, còn võ học không đúng, ví dụ nếu hiền
huynh võ học tuyệt luân như lời hiền đệ luận, thì tại sao không phá trận, may
có tiểu đệ mới cứu được cả nhà ra khỏi vòng vây.
Hoàng Phi Bằng phải đem lòng chân
tình để giải thích cho Lữ Thư biết :
― Thưa tỷ, đại huynh biết tất cả
những chiêu số cũng như mật quyết, khi tỷ xuất kiếm pháp đại huynh còn đón trước
tỷ sẽ sử dụng chiêu thức nào, trong khi ấy tỷ chỉ biết chiêu số mà không hiểu mật
quyết, tiểu đệ ở ngoài trận nghe đại huynh luận về võ học của tỷ và dư đảng
Nguyễn Chí Tùng, đại huynh còn biết tất cả chiêu số đó do tiểu đệ truyền cho tỷ,
đại huynh còn nói:– Khi nào muội Lữ Thư tự mình công phu tìm trong võ học có những
tinh túy thì mới có khả năng sáng tạo chiêu thức, trong văn tự có nhiều chữ
nghĩa ẩn dụ của võ học, lúc bấy giờ muội Lữ Thư mới ngộ được chân nhưng không
ngộ được trời vô tận võ pháp, còn hôm nay thì chưa có gì đáng luận.
Lữ Thư tuy tính bướng bỉnh nhưng
rất nghe lời của Hoàng Phi Bằng, Lữ Thư xưa nay chỉ biết tiểu đệ Hoàng Phi Bằng
là thần tượng, cũng là người em ruột mà nàng thương yêu nhất. Nàng không ngờ
trong gia đình lại có nhân vật xuất chúng thứ hai, thế mà lâu nay cứ tưởng đại
huynh Hoàng Phi Khải là công tử bột, nay mới tỏ tường nhờ Hoàng Phi Bằng mách
nước.
Hoàng Lữu Thư ngơ ngác lên tiếng
:
― Vậy à, thật không, thế mà tỷ chẳng
hiểu gì về đại huynh cả, tỷ chỉ thấy đại huynh õng a, õng ẹo với gia gia, mẫu
thân. Cả ngày chỉ biết đọc sách thánh hiền, nếu thực võ học của đại huynh như lời
nói của tiểu đệ thì tỷ rất hài lòng có một đại huynh anh kiệt, tỷ vui mừng lắm.
Hoàng Phi Bằng giải thích thêm :
― Tỷ tỷ có biết không sở dĩ đại
huynh õng a, õng ẹo là vì muốn gia gia, mẫu thân cả ngày sống vui, hạnh phúc.
Cũng vì chữ hiếu mà đại huynh trở về với quá khứ của tuổi thơ, làm trò em bé tập
đi, tập nói, tập cung kiếm, tập viết văn, như lúc lên ba lên bốn. Đó là chẳn
qua hiền huynh mượn hình ảnh đẹp nhất, mà người mẹ lúc nào cũng muốn con mình
luôn luôn có mặt bên cạnh, đó là hình ảnh mẹ con hạnh phúc nhất đời. Tỷ có biết
không đại huynh hầu gia gia, mẫu thân tức là thay mặt cho tỷ cùng tiểu đệ mỗi
lúc vắng nhà.
Lữ Thư cảm động càng thương đại
huynh hơn, đôi mi lệ lăn tròn. Hoàng Phi Bằng chỉ về phía trước nói :
― Ở đằng xa kia có một nữ nhân
đang đấu với hai mươi ba nam nhân.
Lữ Thư vội hỏi :
― Đằng kia là nơi nào sao tỷ
không thấy ?
Hoàng Phi Bằng gợi ý :
― Tỷ cần phải công phu nhãn lực
thì mới thấy xa được, thôi thì đến nơi tiểu đệ chỉ cho, nếu tỷ thích giang hồ
thì ra tay nhé.
Hoàng Lữ Thư hỏi lại :
― Tại sao hiền đệ thấy mà không cứu
người lại nhờ đến tỷ.
Hoàng Phi Bằng không giấu diếm xa
tình nhân nữ :
― Ở phía trước là một thiếu nữ độ
mười bảy, mười sáu canh, tiểu đệ không thể nào va vào được vì sợ sau này khó
tránh liên lụy.
Hoàng Lữ Thư tò mò hỏi :
― Tạo sao lại sợ ?
― Thưa tỷ sau này sẽ biết, thiếu
nữ này đã đến đường cùng kiệt sức, nội lực đã tàn nguy hiểm quá, địch thủ tấn
công không chừa lối sống, nếu tiểu đệ xuống cứu nữ nhân thì đương nhiêu phải đụng
chạm vào thân người, như vậy chẳng phải là "Nam nữ thọ thọ bất thân"
hay sao, thế mới nhờ đến tỷ, còn nữa nữ nhân đang dụng võ học "Tuyệt Cao Kỳ
Kiếm" và "Phong Tâm Kiếm" cũng khá lắm, nhưng không biết đệ tử của
nhân vật nào trong Cần Lĩnh Nam ?
Hoàng Lữ Thư trách :
― Tỷ tỷ không ngờ làm trai như tiểu
đệ lại nhút nhát mỗi khi gặp nữ giới, thảo nào trong động Nam Khê Sơn, nam thịnh
nữ suy.
Lúc này đại hạc bay về hướng động
Nam Khê Sơn, đã vào địa phận huyện Bình Khang, Lữ Thư mới thấy trong ngoài trận
chiến có những lốm đốm, lờ mờ. Hoàng Phi Bằng nghe tiếng kiếm, tiếng người đôi
bên đối thoại hỏi :
― Thưa tỷ đã thấy chưa, có nghe
tiếng kiếm cùng lời đối đáp không ?
Lữ Thư trả lời :
― Tỷ thấy được lốm đốm, lờ mờ
không thấy rõ, cũng không nghe gì cả .
Lần đầu tiên Hoàng Lữ Thư đi bằng
đại hạc bay trên lưng trời nắng và tốc độ gió mạnh "vù vù", trên mặt
có những vết nám màu xám. Lữ Thư suy nghĩ:– Những gì Bằng đệ hỏi mình mà nghe
được cũng đã khá lắm rồi ! Lần đầu
tiên mình mới biết nhãn-nhĩ lực của hiền đệ quả là thượng thừa, ước gì mai sau
mình cũng như hiền đệ. Suy nghĩ Lữ Thư chưa trọn vẹn, bỗng nghe Hoàng Phi Bằng
hối thúc :
― Hạc đã bay đến nơi rồi, bây giờ
đến cổ thụ đậu, còn tỷ phi thân xuống cứu người nhanh lên.
Tự dưng tình thế thay đổi, trong
ngoài trận đều đồng thấy từ trên trời bay xuống một nữ hiệp tựa lưng che chở
cho nữ nhân khốn cùng.
Lúc này Hương Trí Túc tự nhủ:– Đã
có ân công xuất hiện, như thể hai chân đã rút ra khỏi cửa Diêm vương, ta an
lòng chưa chết được trở về trong cõi sống, ta hy vọng tử thần sẽ đi thật xa không
còn ghi họ tên Triệu Hương Trí Túc và sổ Diêm vương.
Hiện thời nội lực của Hương Trí Túc
đã cạn, hai ngày không ăn uống, không ngủ. Phần địch thủ chia làm hai tốp đấu với
một, tốp này đấu thì tốp kia nghỉ ngơi, cứ thế thì Hương Trí Túc cũng phải đến
lúc như tim đèn hết dầu. Lữ Thư xuất hiện cùng lúc Hương Trí Túc đã chống đầu
kiếm xuống đất, hai chân quỳ trước kiếm giữ thăng bằng thân thể, nếu lỡ để bị
xiêu ngã xuống đất là không còn cơ hội đứng dậy, đôi mắt nhắm lại định thần để
nhận rõ biến động bốn hướng.
Người đứng trước tử thần lúc nào
cũng tỉnh táo, sáng suốt hơn ngày bình thường, Hương Trí Túc lắng tai nghe từng
câu đối thoại giữa địch thủ và vị ân công, trong lòng bình an biết mình còn sống,
nàng cũng biết vị ân công này là nữ giới có lòng hiệp nghĩa, cũng có ý không
làm khó bọn trưởng binh huyện này, nhưng chúng họ không muốn sống.
Hương Trí Túc muốn nói thành lời đa
tạ ân công, mà miệng nói không ra tiếng, lòng nghĩ:– Xin ân công ghi nhớ lời
này. Trên đầu lưỡi kiếm không nhuộm máu của mình, cho nên phải nhuộm máu của
người khác, có thế trong thiên hạ mới gọi là giang hồ, xin ân công xuất chiêu
trừ bọn chúng.
Hương Trí Túc bỗng nghe một tiếng
xẹt như búa thiên lôi giáng xuống, tức thì hai mươi ba thủ cấp đi về cõi âm.
Hương Trí Túc còn biết được có một
luồng gió dược liệu bay qua sau lưng, giải huyệt đạo, nàng vội mở mắt ra người ấy
đã biến mất, chỉ thấy rõ hai viên thuốc trên mu bàn tay từ từ tan hòa vào da,
nàng cảm nhận nội lực hường được phân nửa, trong suy nghĩ của nàng:– Vậy là có
đến hai ân công một vô hình, một hiện hữu.
Cuộc chiến đã tàn, nàng an lòng nở
một nụ cười đôn hậu, hai tay buông kiếm ra cho thân thể thả nhẹ xuống thảm cỏ
xanh, nằm thở đều và nhẹ như cánh chim Hỷ Tước đang bay trên lưng trời xanh.
Lữ Thư vội phi thân đứng vào trung
tâm vòng trận chấp hai tay nói :
― Kính thưa quí các hạ, sự cớ như
thế nào mà hai mươi ba người bao vây đánh một nữ nhân ?
Đầu đảng không cần phải trái tự
khí tính thô bạo nói :
― Mi là ai mà dám tham dự vào việc
của giang hồ ?
Hoàng Lữ Thư chống hai tay nói :
― Bổn cô nương đi ngang qua đây
vô tình thấy nam hiếp nữ thì vào xem cho biết, chớ nào có dám tham dự cõi giang
hồ này đ âu .
Đầu đảng đưa tay chỉ vào mặt Lữ
Thư nói :
― Mỗ dám đứng trước mặt cô nương
tức là có ý cản trở đao thần rồi, hãy lui ra đừng để xác thối làm bẩn đao của mỗ.
Lữ Thư "hừ" một tiếng
nói :
― Đao thần như thảo khấu, hai
mươi ba người tỷ đấu với một nữ nhi yếu đuối, thế mà không biết thẹn ư ?
Tên đầu đảng phồng má trợn mắt
nói :
― Nữ tiện tỳ dám nói mỗ là thảo
khấu à, tốt lắm mỗ cho mi biết danh để tránh xa nơi này nhé. Mỗ chính là trưởng
binh huyện Bình Khang, họ Mai tên Vũ Trung đang thi hành Vương pháp. Chúng bay
hãy bắt con tiện tỳ này để làm nô lệ cho mỗ .
Lữ Thư cười gằn nói :
― Thế à, lệnh Vương pháp có điều
khoản này hay sao. Lý do nào bổn cô nương lại không biết, hay là lệnh miệng của
trưởng binh huyện, nếu thực vậy thì xin trưởng binh bắt tại hạ về làm nô lệ đi,
tha cho nữ nhân này nhé ?
Mai Vũ Trung hậm hực nói lến tiếng
:
― Mặt mi xấu xí, mỗ tởm lắm, nô lệ
cũng phải có một ít nhan sắc chứ, như ma thì làm thể nào được !
Lữ Thư cất tiếng cười nói với trưởng
binh huyện :
― Thế thì bộ mặt của trưởng binh
huyện như thiên lôi có ai chê đâu, thực ra mi là kẻ tà dị phải không ?
Mai Vũ Trung nghe lời nói nữ nhân
tay muốn xuất chiêu. Lữ Thư oai phong tay chỉ vào mặt Mai Vũ Trung nói :
― Bổn cô nương xin trưởng binh
huyện lui binh, nếu bằng không thì đừng trách.
Mai Vũ Trung sống trong hùng hổ
đã lâu, ỷ lại có ít võ xem thường Lạc dân, y chưa từng gặp phải đối kháng nào
đáng để lòng, cho nên hôm nay nét mặt khó coi lộ diện độc ác nói :
― Lại thêm một nữ tỳ nữa rồi, bay
đâu lấy xác con nhỏ này làm đèn cho mỗ, rồi bắt con nhỏ kia sau chưa muộn màn.
Lữ Thư bình tĩnh trước hung thủ,
trong loáng mắt nàng nhẹ nhàng bước về phía trước, vòng tay hỏi :
― Như thế là nhà ngươi quyết định
giết chết bổn cô nương ư. Khó lắm quí các hạ ơi, đang đứng chết trong mơ mộng
mà chưa biết ư, tuy rằng quan phủ ở xa thua đám lộng hành ở gần. Nhưng bổn cô
nương không thể nào nới tay được nữa hãy để kiếm đao xuống mà lấy đức cho vợ
con, bằng không đừnng trách bổn cô nương nặng tay, nàng cười "hà hả".
Mai Vũ Trung vừa nói vừa xuất
chiêu rất nhanh :
― Nào xuất chiêu "đường
phong kiếm" trong "Phong Tâm Kiếm" tấn công.
Lữ Thư thấy chiêu số rời rạc là
đã biết, một lũ võ học lượm của rơi, chiêu số không đâu vào đâu, đúng là kiếm
vô tích khả tâm, không ra môn phái nào cả, tuy vậy nhờ kinh qua biết bảo vệ
thân mà có ít kinh nghiệm, từ đó dung hòa với chiêu thức mới thắng kẻ khác, nay
gặp phải Hương Trí Túc dù sao cũng là danh môn chánh phái, nhờ thế mà tên họ
Mai không hạ được một nữ hiệp khách trẻ mới ra lò.
Lúc này Lữ Thư lấy quyết định cho
cả lũ họ Mai đi vào phủ Diêm vương mò tôm, nếu để cả lũ sống thì khác nào làm
thối dân giang, mình nhân từ như gọi kẻ thù diệt Lạc dân.
Nàng xuất kiếm chuyển chiêu bán
nguyệt thập thức "Địa lôi phục" và một quyền đấm mạnh. Sấm cực khí
dương trên đầu kiếm sáng lên, tất cả hai mươi ba thủ cấp từ từ rơi xuống đất.
Lữ Thư rội chạy lại đỡ nữ nhân dậy,
rồi gọi :
― Muội muội hãy tĩnh dậy đi, tỷ
đã diệt trừ hết bọn trưởng binh huyện rồi, muội hãy đi cùng tỷ rời khỏi nơi
này, không nên nằm ở đây lâu.
Hương Trí Túc đã hồi sức, nhưng
trong người vẫn còn yếu nội lực, lại vừa đói, cần nghỉ ngơi nhiều ngày mới hoàn
toàn bình phục, nhân lúc này nàng có ý nhắm mắt để biết ân công thứ hai là ai.
Lữ Thư vội gọi Hoàng Phi Bằng :
― Tiểu đệ xuống đây cùng tỷ tỷ
tìm kế đưa nữ thiếu hiệp này đi nơi khác.
Hoàng Phi Bằng dụng nhĩ ngữ truyền
âm :
― Tỷ tỷ à, nữ hiệp ấy đã qua khỏi
tử thần rồi, tiểu đệ đã giải huyệt, còn cho thuốc điều thương nội lực chỉ cần tịnh
dưỡng vài ngày là trở lại bình thường.
Lữ Thư chưa luyện tập thuật chuyền
nhĩ âm, cho nên nghe mà nói không đươc vì vậy nàng tức quá gọi lớn :
― Tiểu đệ à, làm thế nào tỷ tỷ phải
đem nữ hiệp này đi đâu bây giờ ?
Hoàng Phi Bằng nói lại :
― Tỷ tỷ cõng nữ hiệp ấy đem về động
Nam Khê Sơn.
Lữ Thư biết em mình rụt rè trước
nữ giới không chịu ra mặt, gọi tiếp :
― Từ đây về đó xa lắm tỷ tỷ làm
sao mà kham cho nổi.
Hoàng Phi Bằng cười trả lời :
― Tỷ tỷ đã nhận cứu người thì
không còn ngại khó, từ đây về động chỉ một buổi đường, điều kiện là nữ hiệp ấy
phải có cái gì đó bỏ vào bao tử chứ, bằng không phải mất ba ngày đường.
Lữ Thư nóng lòng gọi tiếp :
― Vậy lấy thứ gì để cho nữ hiệp
ăn, vừa nói đến đây thì trực nhớ cái túi trên lưng hạc còn đến bốn cái bánh đậu
của mẫu thân cho, nàng phi thân "vèo vèo" mất hút, lên cổ thụ lấy
bánh và nước đem xuống không đầy tam khắc, nàng cho nữ hiệp ăn từ từ từng miếng
một.
Hương Trí Túc chỉ nghe ân công gọi
người tiểu đệ mấy lần, mà không nghe người trả lời, biết rằng đây là cuộc đàm
thoại thì phải nghe cả hai phía chứ ?
Đằng này chỉ nghe được một phía,
thế mà ân công hiểu được đó mới là kỳ diệu. Nàng được ăn bánh, uống nước xem
như đã khoẻ nhiều, những cái bánh này không khác nào quả đào tiên, hai ngày đói
khát nay được ăn uống như của trời ban bố, còn giá trị hơn cả "Một miếng
khi đói, bằng một gói khi no" nàng âm thầm hứa :– Sau này về Hoàng
cung sẽ tâu lên gia gia xin ban ân cho nhị vị ân công, nhân dịp đó mình chọn nữ
ân công này làm sư phụ.
Tiếp theo Hoàng Phi Bằng thảy một
bao lương khô đến chỗ Lữ Thư nói :
― Tỷ tỷ cùng nữ hiệp lấy lương thực
khô này để dùng trên đường đi, tiểu đệ về trước báo tin cho huynh đệ biết để
đón tiếp, trên đường đi tỷ tỷ tìm hiểu gia thế, nếu thấy khác lạ thì cho tịnh
dưỡng mười ngày sau đó tạm biệt không ai nợ ai. Tỷ tỷ nhớ trước khi vào động phải
bịt mặt nữ hiệp nhé, tiểu đệ về trước đây.
Lữ Thư vội hỏi :
― Bây giờ đi lối nào cho nhanh.
Hoàng Phi Bằng hối Lữ Thư :
― Tỷ tỷ đã đến lúc lên đường rồi
đó, cứ đi theo đường trắng phía trước do đại hạc của tỷ tỷ dẫn đường, tiểu đệ
đã đi quá xa rồi.
Lữ Thư hiểu ý của Hoàng Phi Bằng
từ xa vọng lại, nàng nghĩ thầm:– Quả là người đời có nói "Đi một quãng
đàng, học một sàng khôn" tuy mình là tỷ của Phi Bằng đệ mà trí tuệ lại
kém, mình chỉ có dũng mà không có mưu, mình học ở Phi Bằng đệ nhiều lắm, cũng
may có dịp như thế này mới biết được trí dũng của Phi Bằng đệ.
Lữ Thư hỏi danh tánh Hương Trí Túc
:
― Muội có thể cho tỷ biết danh
tánh để tiện xưng hô được không ?
Hương Trí Túc không ngại giới thiệu
với ân công:
― Thưa tỷ được ạ, muội họ Triệu
tên Hương Trí Túc, năm nay đúng mười sáu canh hơn năm tháng.
Lữ Thư cũng tự giới thiệu :
― Tỷ họ Hoàng tên Lữ Thư năm nay
mười tám canh.
Hương Trí Túc miệng ấp úng muốn
nói trong suy nghĩ mà không dám, vì còn e dè. Lữ Thư hiểu ý hỏi :
― Muội muốn nói việc gì cứ nói
không sao đâu, tất cả đồng tin nhau mà.
Hương Trí Túc hỏi tự nhiên :
― Thưa tỷ, đã cho phép thì muội hỏi,
thưa tỷ người tiểu đệ danh tánh là chi vậy ?
Lữu Thư không thể nào cho Hương Trí
Túc biết về Hoàng Phi Bắng, đành phải đáp :
― Đó là tiểu đệ kết nghĩa. Lữ Thư
hỏi tiếp:– Như vậy muội có liên hệ gì với Vũ Đế không ?
Hương Trí Túc trả lời nước đôi :
― Thưa tỷ, Triệu Vũ Đế là người
mà tiểu muội kính trọng nhất, cũng như Tiên tổ Hoàng quân sư, cả hai tuy tuổi
tác hơn kén đến ba giáp mà một lòng xây dựng Nam Việt thái bình, muôn dân hạnh
phúc, có lẽ tỷ tỷ cũng không xa thì gần với Hoàng tiên tổ ?
Lữ Thư khen thầm:– Hương Trí Túc
quả là có kiến thức không phải nữ nhi bình thường, mình phải trả lời như thế
nào đừng để lộ họ Hoàng thì mới ổn :
― Muội à, nếu như họ Triệu của muội,
họ Hoàng của tỷ thì hay biết mấy, thực thế Hương Trí Túc đã biết Hoàng Lữ Thư
là muội của Hoàng Phi Khải và tỷ của Hoàng Phi Bằng nhưng không biết người vô
hình là ai, tuy cả hai thiếu nữ không muốn lộ thân thế của mình, nhưng cũng hiểu
ít nhiều có liên hệ.
Lữ Thư nghĩ còn nhiều thời gian để
biết về Hương Trí Túc nói :
― Bây giờ tỷ cặp bên hông của muội
nhé để đi cho nhanh, nàng vừa nhún mình đã phi thân lên trên ngọn cây đi luôn,
khi gặp thị trấn thì cứ trên mái nhà mà phi thân tới, đến trưa hai người dừng
chân lại ăn bánh uống nước chỉ hỏi vài câu thăm sức khoẻ, rồi tiếp tục lên đường,
đến chiều thì thấy Nam Khê Sơn hiện ra.
Lữ Thư nói :
― Muội để tỷ dùng khăn bịt mặt lại
trước khi đến nhà. Hưng Trí Túc đồng ý, không hỏi lý do vì nàng tin ân công họ
Hoàng.
Trước khi Hoàng Phi Bằng xuống động
cho đại hạc bay qua đỉnh Nam Khê Sơn, chàng thấy một hiện tượng lạ, những cổ thụ
trên đỉnh không gió mà cành lắc lư, đưa qua, đưa lại như có một nội lực tuyệt học
phi thường nào đó đang làm rung động cả đỉnh núi. Cánh đại hạc cũng bị xiên qua
một bên vì sức hút của gió, Hoàng Phi Bằng rời đại hạc phi thân xuống đỉnh núi
mới rõ, chính là miệng động ăn thông đến động dưới, thảo nào trong động có luồng
gió chướng âm hàn quanh năm.
Hoàng Phi Bằng về động lập tức
báo tin có người lạ đến để huynh đệ chuẩn bị đề phòng.
Hương Trí Túc vào động thấy toàn
là những người tuổi trẻ, có những khuôn mặt giống nhau như đúc. Nàng ngạc
nhiên, đó là nguyên nhân làm cho Hương Trí Túc phải quan tâm, khó nhọc lắm mới phân
biệt từng khuôn mặt, tướng diện mạo hầu không để nhầm lẫn khi giao thiệp, ví dụ
khuôn mặt bộ thứ nhất có Chu Thông, Chu Thiện, Chu Hào, khuôn mặt bộ thứ nhì có
Đào Phụng Thương, Đào Phụng Hiệp, thứ ba có Đào Phụng Anh, Đào Phụng Châu, Đào
Phụng Anh Tuấn, riêng Đào Trần Mẫn Trâm là nữ giới nhỏ nhất nhận diện rất dễ
dàng nhận diện.
Còn lại những khuôn mặt bình thường
nhưng không biết ai là Hoàng Phi Bằng vì tất cả cùng hao tuổi, như Lý Bình
Trung, Trịnh Trường, Trịnh Đình Thông, Xuân Giao, Đinh Anh Thi, Độ Thiếu, Trần
Kiều Oanh, Hoàng Lữ Thư, Lệ Thanh xem như không lầm lẫn.
Trong động tổng cộng có thập bát
tú ra đón chào Lữ Thư cùng Hương Trí Túc, tất cả đều mừng rỡ xem nhau như là bạn
tri kỷ lâu năm hội ngộ, không khí náo nhiệt làm cho Hương Trí Túc quên đi những
tháng giang hồ khổ cực cũng vì mục đích đi tìm sư tổ Hoàng Phi Bằng, tuy nay sức
yếu, bào phục tả tơi, gia sản không một hào dính túi, lòng cảm thấy tình người
lớn rộng trong một thế gian hoàn toàn mới.
Lữ Thư hỏi thăm sức khoẻ đệ muội
của mình rồi bảo :
― Đệ muội nào rảnh đi lo chỗ nghỉ
ngơi và dưỡng bệnh cho muội Hương Trí Túc.
Trịnh Trường mau mắn lên tiếng :
― Thưa tỷ tỷ tiểu đệ nhận lo tất
mọi việc.
Mỗi khi trong động có người mới đến
hay là bị bệnh cũng do tay Trịnh Trường điều động chia nhau làm việc, kẻ xem mạch
hốt thuốc, người đi nấu cháo, lo y phục, chỉ trong vòng ba khắc sau là hoàn tất
mọi việc ăn ở, riêng Lữ Thư dẫn Hương Trí Túc đến hồ tắm tẩy trần, thay xiêm y.
Hoàng Phi Bằng phi thân vào phía
trong ngồn suối tìm luồng gió âm hàn. Không sai phía trong suối có một động rất
rộng lớn hơn năm lần động dưới, trung tâm động có rất nhiều xương thú rừng đã mục
rã.
Hoàng Phi Bằng muốn biết chiều
cao của động, chàng phi thân từ trung tâm lên đỉnh ước tính được hơn phân nửa của
Đông động Lạc Việt, chàng tính toán ngay phương pháp chận luồng gió sinh chướng,
cũng có thể sử dụng được động này làm nơi trú ẩn hay lưu trữ lương thảo v.v...
Hoàng Phi Bằng ra khỏi nguồn suối,
xuống động cho huynh đệ biết :
― Quí huynh tỷ đệ đừng sợ khi có
tiếng nổ trong nguồn suối, cũng đừng ngạc nhiên khi có một giòng suối thứ hai
chảy vào động.
Hoàng Phi Bằng trở lại động trên
xem thế nguồn suối, lấy quyết định nhân tạo, sắp đặt lại cái thiên tạo ra cho
phù hợp với ngồn nước thiên nhiên.
Chàng xuất "Đại hồng quyền"
trong "Công Quyền Lĩnh Nam", nổ liên tiếp hai tiếng "ầm...ầm..."
giòng suối chảy vào nơi nổ trở thành một nhánh suối nhân tạo thứ hai, dĩ nhiên
trong động không còn gió chướng, trở thành ấm áp, nhờ nhánh suối mới che chắn
âm hàn lại. Chàng phi thân lên đỉnh núi thấy tất cả cây cổ thụ hết rung chuyển.
Chàng đừng ngắm cảnh suối nhân tạo chảy tự nhiên bung hoa nước rất đẹp. Từ đây
động Nam Khê Sơn có hai tên gọi là động dưới, động trên, đặc biệt động trên kiểm
soát toàn bộ sinh hoạt của động dưới, trái lại động dưới không thấy sinh hoạt động
trên.
Lữ Thư được huynh đệ cho biết
nguyên nhân trong động ấm áp, không còn gió chướng. Thập bát tú được lệnh chuẩn
bị chuyễn lên động trên cư ngụ.
Hương Trí Túc ở trong động được bốn
ngày, thường xuyên tiếp xúc thân mật với Lữ Thư. Lữ Thư là phận nữ giới cho nên
muốn biết cá tính của Hương Trí Túc yêu thích những gì, còn Hương Trí Túc đương
nhiên không thể trả lời những gì thuộc về nàng.
Lữ Thư gợi ý :
― Muội có mạo tướng quí nhân, thường
để ý những nhạc cụ, tranh họa, binh khí ở trong động, như vậy muội đã sử dụng
được những thứ này không ?
Hương Trí Túc thấy câu hỏi này có
nhiều ẩn ý, một là tìm gia thế, hai là vô tư vì nghệ thuật, cũng cảm thấy ân
công không có ẩn ý gì, trả lời :
― Thưa tỷ, muội sử dụng được thư
pháp, họa, kìm, tiêu.
Lữ Thư hỏi tiếp :
― Còn võ học thì muội chuyên những
gì ?
Hương Trí Túc không ngại trả lời
:
― Thưa tỷ, hiện nay muội chỉ biết
hai pho kiếm để bảo vệ thân là "Tuyệt Cao Kỳ Kiếm" và "Phong Tâm
Kiếm" riêng nội công thì mới luyện tập.
Hoàng Phi Bằng đang ngồi đối diện
Hương Trí Túc, đã biết mối liên hệ của Hương Trí Túc đối với gia đình, do Hoàng
Phi Khải đưa tin. Chàng cũng biết hai pho kiếm do Lữ Trường Gia và Hoàng Quốc Kỳ
truyền thụ cho Hương Trí Túc.
Hoàng Phi Bằng định chắc Hương Trí
Túc chính là công chúa, riêng nội công cũng khá nhờ đại huynh Hoàng Phi Khải
truyền thụ cho. Công chúa có liên hệ mật thiết với Khải đại huynh, còn Hoàng Lữ
Thư thì chưa biết rõ thân thế của Hương Trí Túc.
Lữ Thư hỏi dồn dập :
― Hai pho kiếm cùng nội công do sư
phụ nào truyền thụ ?
Hương Túc không biết phải trả lời
như thế nào, trước khi học hai pho kiếm này, Lữ Trường Gia cùng Hoàng Quốc Kỳ
có bảo đừng nói tên hai người, còn dặn dò "Nếu ai hỏi hai pho kiếm do ai
truyền thụ thì trả lời rằng. Ngày nay hai phổ kiếm đã truyền ra khắp thiên hạ,
ai cũng biết, nhà nào cũng có, ai cũng tự luyện tập được" nhưng ngại thay
mình đang đứng trước người võ học thượng thừa, thử hỏi làm sao mà tự dối lòng với
họ được, cũng tức là mình trái với lương tâm, nếu nói thực thì hoàn cảnh đưa
mình đi về đâu, thôi thì lòng đành nói thực :
― Thưa tỷ, muội được hai vị sư phụ
Hoàng Quốc Kỳ, Lữ Trường Gia truyền thụ võ học cùng nội công. Sau đó muội mới
biết hai vị Hoàng Quốc Kỳ, Lữ Trường Gia là đệ tử của sư tổ Hoàng Phi Bằng, từ
đó muội đi khắp nơi tìm sư tổ Hoàng Phi Bằng, đã trải qua trên ba mươi trận chiến,
tưởng đâu mất mạng, mãi đên nay đã ngót gần hai năm mà tăm hơi vẫn biệt tăm,
không tìm được dấu vết của sư tổ.
Muội tự đi tìm Cần Lĩnh Nam, cũng
như trong giới giang hồ hỏi ra không ai biết sư tổ ở đâu, trong giới giang hồ
nghe tiếng mà không biết người, có nhiều lần muội thấy sư tổ, thế mà không được
dịp yết kiến, năm ngoái muội đến Cửu Chân thăm gia gia của sư tổ thì bị hai gả
hành khất lắc túi, mất hết ngân kim, thế là một trận đao kiếm một đánh mười, muội
lấy lại được túi ngân kim nhưng lại bị thương trầm trọng. Lúc ấy có một đại hiệp
phi thân vào cứu muội đem về nhà nhờ gia gia, mẫu thân chữa trị, sau khi tĩnh lại
muội xem bà ấy như mẫu thân, muội kể hết câu chuyện thời gian trôi qua.
Tình cờ bị tai nạn lại gặp được
gia đình sư tổ, mới biết gia gia, mẫu thân và người cứu muội là đại huynh Hoàng
Phi Khải, có hai người em tên Lữ Thư, Hoàng Phi Bằng.
Muội được gia gia, mẫu thân cùng
đại huynh chiếu cố, luyện tập bổ túc hai pho kiếm pháp, còn nội công thì đại
huynh bổ túc cho muội. Còn nữa, muội may mắn được đại huynh Hoàng Phi Khải hướng
dẫn cách thức chọn sách để đọc, cách thức ghi chú thư pháp cũng như binh pháp
và lịch sử. Những ngày ở Cửu Chân rất là an lạc và hạnh phúc, đôi lúc vào thư
phòng cùng với đại huynh luận bàn nhiều vấn đề hiện tại, tương lai của Nam Việt
rất là lý thú, những ngày đó như pho kinh kỷ niệm khó quên.
Huỳnh Tâm
Kho Tàng Việt Vương, tất cả 10 chương.
Đọc tiếp chương 10.
Nước Non Bờ Cõi Một Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét