Anh Hùng Nam Việt - Chương Tám ( Huỳnh Tâm )

Làm Trai Vị Quốc, Danh Muôn Thuở

Vốn tính của Phùng Nam, tâm tư khó lộ, tính bộc trực, không tự hào và chưa bao giờ đắc ý một điều gì sau khi thành công, nhưng hôm nay ông vui mừng đã diễn đạt hết tình ý, bằng một cười "hà hà" sảng khoái nói :

― Kính mời Tổ sư phụ, quý huynh đệ đồng vào hậu sảnh đường tham dự buổi đoàn tụ để chúc mừng chiến thắng biên giới Tượng Quận.

Trong hậu sảng đường lời chúc tụng của mọi người, qua cảnh vui mừng khó quên, một dịp hội tụ không có lần thứ hai trong mỗi đời người . Sáng hôm sau huynh đệ Phùng Nam thay mặt Lạc dân Tượng Quận, còn Hoàng Hạc thay mặt Nam Việt Vũ Đế. Mật đàm kế sách đối phó Phương Bắc và bảo vệ đại hội Phiên Ngung thành. Trong giờ giải lao uống trà Hoàng Hạc cho huynh đệ Phùng Nam biết thêm chi tiết về sinh hoạt của thất Hoàng Đức, tuy nhiên ông không đề cặp quá khứ của thất Phùng Điền, mà chỉ đưa ra những sự kiện hiện tại để cho huynh đệ Tượng Quận biết, ông nói :

― Mỗ thấy quý huynh đệ Tượng Quận chỉ biết thất Hoàng Đức ở một góc cạnh đơn thuần, qua trận chiến thắng ở biên giới, nhưng không biết thực lực của thất Hoàng Đức có phải thế không ?

Phùng Nam sửng sốt thưa :

― Thưa Tổ sư phụ, theo lời dạy, chúng đệ tử chỉ biết Phùng Hưng là con, lại có tài dụng võ cũng như mưu lược, mới được tin cậy và nạp vào binh, chứ ngoài ra không biết gì hơn nữa, xin Tổ sư phụ cho chúng đệ tử thỉnh giáo.

Hoàng Hạc lúc nào cũng để lòng lạc quan, với một nụ cười nhân từ đáp :

― Đây là sự phúc chung của Bách Việt, chứ không có gì đâu mà quý hiền đệ bối rối, khi mỗ đặt tên cho thất Hoàng Đức là có ý chuẩn bị cơ nghiệp mai sau cho Nam Việt, hiện nay quý huynh đệ chỉ thấy thất Hoàng Đức với mấy trăm chúng, nhưng chưa hiểu giá trị phần sau của nó, đây là một lực lượng tinh nhuệ trên ba ngàn Hoàng Đức, đang hoạt động chuyên về kinh doanh từ biên giới Tượng Quận trên sông Tây Giang đến cửa bể Hổ Môn, với một lực lượng này biến thành binh mã trong nháy mắt, về kinh doanh có thể tiếp ứng được một phần lương thảo cho cuộc chiến giữa Việt và Hán, điều này quý huynh đệ chưa thấy tài năng tuổi trẻ ngày nay, họ có khả năng hơn mỗ nhiều lắm, lâu nay người lớn cứ xem thường tuổi trẻ, như người đời có câu nói không lấy gì vui lắm: "Hỉ mũi chưa sạch mà đòi làm việc nước" quả thực ngày nay câu nói trên đã lỗi thời. Mỗ nói ra đây để quý hiền đệ vui mừng, cho con cháu của mình, chúng nó đã biết lo việc nước rồi đấy, cũng nói thêm trong nội bộ Hoàng Đức giới luật rất nghiêm minh, không tuyển mộ người bừa bãi, dù rằng thân quyến cũng thông qua bang luật. Hoàng Đức tuyển chúng qua đức hạnh, võ học và chí cường phù Nam, đây là nguyên tắc bảo quân của Nam Việt Vũ Đế, quý hiền đệ chú ý cho và đừng hỏi xuất xứ của Hoàng Đức, ngày mai mỗ bảo thất Hoàng Đức trình bày cho quý huynh đệ biết mà để bảo mật .

Sau khi Anh hùng Tượng Quận nghe Hoàng Hạc giải thích như vậy, thì tinh thần trở lên phấn chấn gấp bội, nhất là Phùng Nam không ngờ đứa con của mình lưu lạc giang hồ, nay làm lãnh tụ Hoàng Đức từ Tượng Quận, Quế  Lâm, Nam Hải, thế mà lâu nay Phùng Nam xem Phùng Hưng không ra gì, bây giờ nghe chính Tổ sư phụ nói mới tin con mình có chỗ hữu dụng, còn những huynh đệ của Phùng Nam thì lấy làm đắc ý, vì lâu nay Phùng Nam không hài lòng lục huynh đệ tiếp nhận Phùng Hưng, bây giờ sự đố kỵ của anh hùng Tượng Quận không còn nữa, họ cảm thông cho nhau vì việc nước không vì việc nhà.

Anh hùng Tượng Quận xưa nay vẫn xem Phùng Nam là đại ca, nay họ càng kính trọng hơn. Hoàng Hạc nhờ Phùng Nam lập một phòng riêng để ông gặp Hoàng Phi Bằng, Phùng Hưng, Lữ Trường Gia, Lê Trung Kha, Mạc Thu Tá, Hoàng Quốc Kỳ và Hoàng Tố Nguyệt.

Gặp nhau bất ngờ không hứa hẹn ai cũng vui mừng, cho nên miệng cười mà ra nước mắt. Hoàng Hạc ung dung nói :

― Tổ phụ, muốn thất nhi thuật lại tình hình sinh hoạt trong thời gian vừa qua.

Phùng Hưng trịnh trọng trình bày nội vụ trong ngoài Hoàng Đức và đáp :

― Thưa Tổ phụ, thời gian đầu làm theo kế hoạch của Tổ phụ, thất nhi thực hiện hoàn chỉnh, bước thứ hai, lúc gần đây thất nhi không gần Tổ phụ mà tự bàn thảo, tự hoạt động lấy, hiện nay đã tổ chức giao dịch đường sông, có trên một trăm con thuyền lớn nhỏ, mỗi thuyền có từ ba đến năm chúng Hoàng Đức phụ trách, mua thực phẩm của Hán với giá thật rẻ đem về bán lại cho dân lấy công làm lời, giao dịch này gọi là "hốt của Hán đổ vào Nam Việt" ngược lại mua những sản phẩm dư thừa của quê mình đem bán cho Hán với giá cao, Hoàng Đức còn mua võ khí, sắt thép, đồng, chì đem về lưu trữ.

Đây là kế "Hổ chê mèo" khi lâm chiến người Hán không đáp ứng kịp lương thực, vũ khí. Trên bộ Hoàng Đức có hai mươi trang trại tọa lạc khắp nơi, đường biển chỉ có một thuyền di chuyển từ Hổ-Môn xuống Cửu Chân.

Tháng trước ở Cửu Chân có một tổ chức hiệu là "Phục Hùng Bài Hán" Nhân sự trên hai trăm, nay họ công nhận "Hợp Việt Xuất Hán" họ cho là hướng đi chính đáng, họ xin gia nhập vào Hoàng Đức, thất nhi chấp thuận, tuyển được trên trăm thành viên tinh nhuệ, còn lại những thành viên không đủ sức khoẻ thì cho về địa phương với nhiệm vụ mới là phát triển Hoàng Đức địa phương, luyện tập võ nghệ và liên lạc, quyền lợi của họ cũng như thành viên hiện lưu ngũ Hoàng Đức.

Hiện nay Hoàng Đức bang có thêm bốn nghĩa hiệp mới, tổng cộng thập nhất Hoàng Đức, họ thề sống cộng lực vì tinh thần "Hợp Việt Xuất Hán", cách đây hơn tám ngày Hoàng Đức tuyển trong tàn quân của Nguyễn Hồng cùng giặc cỏ, được sáu trăm thanh niên tinh nhuệ, số còn lại hơn ngàn, cũng tổ chức theo mẫu Hoàng Đức ở Cửu Chân, tạm thời lập trang trại tại cương giới phía Tây, Nam Việt-Hán do bốn tổng bang và mười bang chúng Hoàng Đức phụ trách.

Đặc biệt nhất trong trận Mân Việt Xã bắt được nhiều tổ chức gian tế làm phản, gồm có năm tổ chức hoạt động tại Tượng Quận, như Tiên Thiên Đảng do huyện hàm Đại Lý làm đảng trưởng tên Tào Đăng sào huyệt tại núi Mạch Tứ. Chiếu Minh Giáo do Tiêu Đình Lân làm động chủ tại vùng núi Đô Di An và núi Lin Căng. Cao Thượng Bửu Tòa bang do Hoa Duy Hậu giáo chủ, sào huyệt núi Li Khu và núi Dao Tông. Bạch Y Chơn Lý Giáo do Tăng Trung bang chủ, sào huyệt núi Lu Di. Liên Hòa Tổng Hội ở núi Đông Châu do Lý Tồng Chu làm bang chủ, họ hoạt động bí mật, lấy núi rừng lập sào huyệt, thường xuyên di chuyển từ núi này qua núi khác, riêng địa chỉ Côn Minh có Đại Đồng Cộng Dụng trung tâm gian tế của người Hán do Tăng Vĩnh Thứ làm chủ.

Sau khi Nguyễn Hồng thất trận, những thành viên Mân Việt Xã được tuyển chọn lại, trong số đó hiện đang sống tại địa phương và đang huấn luyện họ thành giám binh của Tượng Quận.

Còn nữa cách đây hai ngày Tượng Quận Vương, triệu tập trên hai trăm anh hùng, nghĩa hiệp chấp nhận cộng lực diệt Hán, đứng ra trừ khử những bang, đảng, giáo phái. Những anh hùng Tượng Quận nhất quyết bảo vệ sự tồn vong Nam Việt.

Trong dịp này Tượng Quận Vương khám phá kho tàng trí tuệ và tài năng, họ có tâm huyết nghĩa khí, đức hạnh, đứng lên nhập cuộc đúng vào lúc đất nước cần, anh hùng xuất hiện như rường cột nguyên thủy, chưa hề hư hao.

Tượng Quận Vương bàn thảo kế mưu với quân dân, chia từng địa bàn tiến quân, như Tướng quân Tượng Quận đánh vào sào huyệt Minh Trị tại núi Mạch Tứ. Thập nhị đại hiệp Tôn Nhân hội chia thành hai đạo đánh Thương Hồng động tại vùng núi Đô Di An và núi Lin Căng, về phần trú sở Côn Minh thì do Tượng Quận Vương đứng ra san bằng trọn gói, còn lại hai nơi theo kế hoạch "Lùa tà bắt quỷ phục thành chánh" như heo rừng vào bẫy, do bốn mươi anh hùng giang hồ mới xin gia nhập Tượng Quận, cùng với Lạc dân tự nguyện chiến đấu. Những anh hùng này còn cho biết, ý đồ của các đảng bang, dự trù ngày đại hội thành Phiên Ngung là cơ hội tốt để họ phát triển thế lực làm phản, trong ấy có rất nhiều nhân vật đứng đầu triều đình làm gian tế cho Hán.

Tượng Quận có trình tấu khẩn cấp lên triều đình, về tin thắng trận, có đính kèm danh sách gian tế Hán.

Sau trận đánh Mân Việt Xã, có điều rất lạ không biết nguyên nhân nào thúc thúc Nguyễn Hồng tư nhiên bị chết, không thương tích nào để lại, với sự biến mất người phụ nữ hầu thúc thúc.

Phụ nữ này tướng mạo ốm yếu, người nhỏ thó, đôi mắt lương, da thâm, tuổi độ sáu mươi ngoài, thân cốt không võ nghệ, chỉ làm một việc hầu thiếp.

Hoàng Hạc môi múm lại, ngạc nhiên, không ngờ người đàn bà này giỏi về chất độc, ông thở dài nói :

― Thất Hoàng Đức không biết tung tích người đàn bà này hay sao ?

   ― Dạ, chúng hài nhi không biết gì cả, vì mọi tang sự có quý thúc bá lo liệu .

Hoàng Hạc có vẻ thản nhiên, rồi kết luận :

    ― Trên giang hồ mọi việc khó biết trước, tuy người đàn bà này không biết võ học, nhưng lại biết điểm yếu của thiên hạ là không phân nặng nhẹ đạo đức và thời lúc độc dược, sau đó người đàn bà này lặng lẽ biến mất. Việc này không đơn giản như vậy, nay biết thì phải đề phòng ngày sau, còn về Trịnh Đình Thao thì thế nào ?

Lữ Trường Gia cúi đầu thi lễ đáp :

― Thưa Tổ phụ, sư đệ Trịnh Đình Thao bị thương rất nặng, phải chuyển ra bể Hổ Môn, hiện đang nằm điều thương trên một những thương thuyền của Tổ phụ.

Hoàng Hạc lấy làm quan tâm tình trạng thương tích của tam sư đệ Hoàng Đức, trong lòng có dấu hiệu vui nói :

― Như vậy Tổ phụ an tâm rồi, xem ra Trịnh Đình Thao đã tai qua, nạn khỏi. Hiện nay Tổ phụ rất hài lòng những việc làm của thất nhi, cũng như hoạt động đúng ý của Tổ phụ, nay Trịnh Đình Thao có khỏe nhiều không  ?

Phùng Hưng cúi đầu, liền đáp  :

― Thưa Tổ phụ, hai vết thương ở vai của tam đệ đã lành rồi, còn vết thương ở trước ngực đã lành phân nửa.

Hoàng Hạc đôi lời dặn dò :

― Hưng nhi à, ngày mai Tổ phụ đi Nam Hải rồi đến cửa biển Hổ Môn hẹn gặp thập nhất Hoàng Đức ở đó để ra mắt Nam Việt Vũ Đế, kể từ hôm nay Hoàng Đức là bảo quân Nam Việt Vũ Đế, ngày mai lục nhi trình nội vụ Hoàng Đức nhưng không được nói đến Phùng Điền, lục nhi hiểu ý của Tổ Phụ chứ ?

Phùng Hưng cúi đầu, thưa :

― Thưa Tổ phụ lục nhi hiểu, vâng lời Tổ phụ.

Hoàng Hạc xoay qua Hoang Phi Bằng nói :

― Bằng nhi, chuẩn bị hành lý đi Nam Hải.

Hoàng Phi Bằng đưa mắt ngó lục Hoàng Đức, ý muốn ở lại sẽ cùng đi với Hoàng Đức đến Hổ Môn, chàng thưa : 

― Thưa nội tổ, Phi Bằng nhi xin cùng đi với lục Hoàng Đức, đây là cơ hội tốt để Bằng nhi tìm hiểu kiếm pháp của thất Hoàng Đức, cũng để học ít nhiều đời sống giang hồ, nhân tiện chu du khắp miền Tây quê hương.

Hoàng Hạc suy nghĩ một hồi, nghe ra Hoàng Phi Bằng nói cũng có lý, ông không trả lời mà chỉ gật đầu, như một mệnh lệnh đồng ý .  

― Phi Bằng ta ơn Nội tổ.

Hoàng Hạc nói với Phùng Hưng :

― Bây giờ tổ phụ cùng quý hài nhi đến mộ phần của Nguyễn Hồng để thăm y lần cuối.

Tất cả đồng ý khi đến nơi, Hoàng Hạc xuất một quyền bốc mồ Nguyễn Hồng, đất trên mộ bay lên bốn hướng chỉ còn lại áo quan tài. Hoàng Hạc ra hiệu tất cả lui bước xa mộ hai trượng. Ông xuất quyền thứ hai nắp quan tài bật lên, một luồn khói đen xanh thẩm, mùi hôi nồng nặc bay ra. Một khắc sau Hoàng Hạc ra hiệu, tất cả đồng đến xem trong đáy quan tài, mọi người mới thấy chỉ còn một bộ xương đen kịt, chưa kịp rã thành bùn non.

Hoàng Hạc mặt biến sắc dậm chân, ngửa mặt lên trời, thở dài nói :

― Đúng là xương cốt của Nguyễn Hồng, còn người phụ nữ độc ác ấy là ai ? Trên thực tế ông đã biết địch thủ, nhưng không tiện nói ra.

Còn suy nghĩ của Phùng Hưng:– Nếu như mỗ có chất độc này thì chế ngự được anh hùng thiên hạ.

Còn, Hoàng Phi Bằng có suy nghĩ riêng:– Không thể tha thứ được những kẻ sử dụng chất độc hại người.

Hôm sau Hoàng Hạc từ giã anh hùng Tượng Quận, trong lòng ai cũng lưu luyến tổ sư phụ, tuổi hạc đã cao mà vẫn bôn ba vì đức háo sinh cho đất nước, chưa bao giờ tạo cho mình không gian hưởng thụ, tuy ông có một gia sản trải rộng từ Giang Tô đến Nhật Nam, thế mà vẫn sống như Lạc dân bình thường, ông là trưởng lão của họ Hoàng tại đất Giang Tô, ông giáo dục cả họ sống vì Bách Việt. Hoàng phi Bằng và lục Hoàng Đức tiễn chân Tổ phụ thêm một đoạn đường rồi tạm biệt.

Buổi chiều Phùng Hưng cùng lục Hoàng Đức trình bày tất cả sự việc trước anh hùng Tượng Quận, sau trận chiến thắng biên giới phía Tây, lục Hoàng Đức được toàn dân mến tặng ngoại hiệu "Thất hiệp Hoàng Đức Tượng Quận". Đại gia đình huynh đệ Phùng Nam thấy từ đây Tượng Quận có một hình ảnh mới về mặt an ninh, đặc biệt người dân hy vọng vào tuổi thanh xuân của thất Hoàng Đức, họ cho đây là những anh kiệt đất Tượng Quận mới xuất hiện.

Hôm sau lục Hoàng Đức cùng Hoàng Phi Bằng kính cẩn tạm biệt đại gia đình huynh đệ Phùng Nam, hẹn gặp nhau tại thành Phiên Ngung, cả bảy thầy trò thúc vó ngựa lên đường trực chỉ xuống hướng Nam.
 
Đất Tượng Quận ra công báo mọi nơi, tuyển chọn được bảy mươi hai tráng khiệt văn võ song toàn, hai mươi tám tráng sĩ võ nghệ xuất chúng. Qua năm ngày tuyển chọn có trên ba ngàn Lạc dân xin đầu quân, thành một thế lực mạnh, đủ sức khai tử những đảng, bang, giáo phái, gian tế Hán.

Tướng soái và quân dân mượn địa thế hiểm trở của doanh trại Hoàng Đức để tập luyện, như trước kia ai cũng biết nguyên là sào huyệt của Mân Việt Xã. Chỉ cần ba tháng ngày đêm luyện tập sẽ trở thành binh cường, tướng mạnh, tinh binh nhuệ khí. Hiện chia thành năm bộ quân thiện chiến, tướng sĩ binh pháp dũng mãnh, thông thuộc trận hợp chiến, đơn chiến, có cả đội ngũ Lạc giám binh, Lạc cảm tử binh.

Ngày khởi binh đã đến, Tượng Quận Vương và tứ trụ Mân Việt phong ban ngũ ấn, đao kiếm, cờ tướng soái, đồng nghinh chiến với giặc ô hợp.

Đạo quân thứ nhất, do đại tướng soái Trần Anh Minh, phó soái Bạc Thành Công, tiền đạo tướng Hồ Khanh, tả đạo tướng Nguyễn Cừ Thông, hữu đạo tướng Lèo Bảo Cường, hậu đạo tướng Điều Đinh Kha, tướng lương thảo Hà Thái Hầu và các tướng Lạc dân như Khằm Leo Sa, Lò Bao Lú, Vi A Tùng, Tòng Pha Tù, Ngần Pha. Tiến vào sào huyệt núi Mạch Tứ, đánh Tiên Thiên đảng trưởng của họ Tào tên Đăng, trước đây y là huyện hàm ở Đa Lý.

Cùng ngày, năm đại binh Tượng Quận tiến vào tất cả sào huyệt của gian tế và làm phản. Tiên Thiên đảng dùng thủ đoạn mê tín dị đoan, chiêu dụ người dân lương thiện ở nông thôn, kém hiểu biết về tâm linh, qua các pháp thuật đồng bóng, cầu cơ, xin bùa trị bệnh, sai binh khiển tướng bằng hình nộm. Người dân xem những pháp sư như thần thánh, pháp sư khai thách họ nhưng những túi tiền, từ đó những pháp sư nẩy sinh tham vọng.

Thầy trò pháp sư Tào Đăng trên bốn trăm nhân khẩu, bơi lội trong không gian mù mịt, hám tìm danh vọng hão huyền. Tiên Thiên đảng vắt hết xảo thuật cầu cơ, cầu âm binh, thu phục lòng dân hiếu tín, mơ muội, những pháp sư ngày đêm vẫn loay hoay, ráng viết bùa hộ mệnh phân phát cho đảng chúng, người dân đơn thuần nhận bùa chú xem như thần tiên ở bên mình, đại đa số không biết chữ, nếu có biết chữ cũng vài người là cùng, bùa viết nguệch ngoạc chữ không ra chữ, hình tượng không ra hình tượng. Pháp sư chỉ cho họ biết đây là chữ của Tiên-thánh-thần, quả thực dù trên cõi Tiên-thánh-thần cũng không thể hiểu nổi chữ của pháp sư, chính pháp sư còn không hiểu, có những pháp sư vô học biết chữ đâu mà đọc, thế mà họ trở thành lãnh tụ của Tiên Thiên đảng, những câu chú cầu hồn cũng đặc biệt, pháp sư xướng lên không ai hiểu, cả chính họ cũng không biết nốt. Sở dĩ những pháp sư đảng Tiên Thiên có được một lực lượng là nhờ người dân quá mơ tín dị mộng, thêm vào đó những pháp sư võ nghiệp hoàn toàn dốt đặc chữ lỏng, luyện tu tiên theo gia truyền sơ đẳng của một phần ngàn pháp thuật Thái Thượng Lão Quân, họ thường cầu nguyện Tiên, Thần, Thánh gia hộ độ trì, nhưng họ chưa bao giờ cầu chính khả năng của họ tạo ra sự nghiệp nhờ đôi bàn tay và trí tuệ quyết định .

Họ chưa thấu, chính con người là trung tâm tạo ra của cải và quyền lợi, một cộng đồng vô văn hóa thì đời sống sớm muộn cũng trở thành bất lương, như những pháp sư đang nối tay chân cho gian tế Hán, họ mượn tập thể mơ tín để phục vụ tầm nhìn hạn hẹp. Tuy những pháp sư không biết tổ chức nhưng nhờ số đông cùng đồng hành theo ý muốn của pháp sư, nếu nhận rõ hiện thượng này chính là cộng đồng bị sai bảo. Cho nên lương thiện hay hung bạo chỉ ở những pháp sư mà ra, những pháp sư tự phong vương tướng quân, vương tướng đảng tiên thần v.v...

Đôi khi đảng chúng hồ nghi việc gì, hay về thiên chức thì những pháp sư trả lời "Thiên tướng do Thiêng Liêng ân phong", thế là đảng chúng tin. Đôi khi đảng chúng hỏi về sự hưng thịnh của đảng Tiên Thiên, thì Tào Đăng trả lời "Thiên cơ bất khả lậu" Trên thực tế họ nào biết đâu là cơ, đâu là lậu, nếu biết đã nói rồi ! Chính người đảng trưởng chung thủy trong lòng lừa đảo, mượn tiếng Tiên, Thần, Thánh để đào tiền của đảng chúng. Tào Đang giảng giáo lý:– Quý huynh đệ muốn Tiên, Thánh, Thần chứng minh lòng thành, thì xin cúng đàng tài vật, sau đó Tiên, Thánh, Thần không phụ lòng sẽ trao phép bất tử. Pháp sư nói thế mà cũng có người nghe, trên thực thế Đấng Trời Cao không lừa dối con người, nhưng trái lại kẻ tự nhận thay Trời lập ra tổ chức hành nghề lừa dối.

Không còn bao lâu nữa Tào Đăng lao mình vào cửa tử, y giả dụng phép thuật để liều một phen nhằm che phủ cái giả của đảng Tiên Thiên họ Tào.

Khi chúng đảng Tiên Thiên hay tin, đạo quân Tượng Quận, do đại tướng soái Trần Anh Minh tiến vào bao vây sào huyệt núi Mạch Tứ. Tức thí Pháp sư Tào Đăng dựng đàng, nổi trống khua chiêng, cồng, chiêu hồn bảy ngày, chúng đảng rất tin tưởng không xuất quân mà vẫn thắng trận, tin tưởng pháp sư Tào Đăng là con của Trời, sau bảy ngày quân Tượng Quận sẽ tự tan rã, Tào Đăng sẽ xuống núi tiến vào Tượng Quận.

Đại tướng soái Trần Anh Minh được giám binh trình bày sinh hoạt nội bộ của đảng Tiên Thiên, tâm trạng đảng chúng chỉ là thành phần mơ tín di mộng, thực lực trên hai trăm, phòng thủ sào huyệt là kẻ không biết dụng binh pháp, chỉ biết lập đàng đọc thần chú, cầu hồn là chính .

Sau bảy ngày đại tướng soái Trần Anh Minh bao vây Tào Đăng, không ngờ cuộc chiến chỉ trong một buổi sáng đã đem lại chiến thắng, bắt được toàn bộ đảng chúng, những phù thủy con trời gian tế Tào Đăng bị thộp cổ. Đại tướng soái Trần Anh Minh hỏi tội gian tế Tào Đăng :

― Thưa, đảng trưởng Tiên Thiên, nếu mỗ xin thủ cấp đảng trưởng con trời, thì lưỡi đao này đương nhiên là vô dụng, vậy mỗ phơ thử qua cổ, xem thủ cấp có rơi xuống đất không. Nếu như thủ cấp không rơi, mỗ đây sẽ tha tội chết và bái phục xin làm đệ tử của sư phụ.

Tướng Trần Anh Minh xuất đao chỉ hai thành công lực, đầu của Tào Đăng rơi xuống như một sọ dừa tròn quay lăn trên mặt đất, đao xuất liên hồi, mười bốn thủ cấp pháp sư Tiên Thiên cùng đi với Tào Đăng về cõi Tiên Thiên, lúc này đảng chúng mới hiểu ra là bấy lâu nay bị bọn Tào Đăng lừa gạt lòng tin.

Đại tướng soái Trần Anh Minh, thở dài hỏi :

― Còn vị nào là con trời, dùng được pháp thuật xin đứng ra đây nói chuyện với lưỡi đao.

Không một ai lên tiếng, Đại tướng soái Trần Anh Minh, nói đôi lời nhu thuận với những người lầm lỡ kiếp sinh :

― Xin quý huynh đệ, từ đây hãy bỏ cái pháp thuật ma mị, đừng chạy theo dục vọng cái không có, để rồi bỏ bê gia đình, bỏ bê chính sự sống của mình, khi đã mơ muội thì không tạo được hạnh phúc cho ai cả, nhất là làm suy nhược phong hóa Bách Việt. Quý huynh đệ phải biết mười tám đời vua Hùng để lại cho hậu thế một kho tàng văn hiến, không có chương nào nói về phép suy nhược thần kinh như bọn Tiên Thiên đã làm, quý huynh đệ đã bị họ dụ vào mơ tín quá đáng, chỉ vì hy vọng sẽ làm con trời bất khả xâm phạm, quý huynh đệ nếu có pháp thuật thì cử bạt tảng đá ba trăm cân kia thử xem.

Mỗ, mời quý huynh đệ xem kìa mỗi binh sĩ Tượng Quận đang cử bạt những tảng đá chướng ngại vật, trên năm trăm cân, đó là pháp thuật do sự luyện tập sức mạnh thực tế. Hôm nay mỗ chỉ phơ đầu những tên lưu manh, gian tế, còn quý huynh đệ được lập tịch Lạc dân khoan hồng, nếu tái phạm theo gian tế lần thứ hai sẽ như Tào Đăng, đây cũng là dịp để quý huynh đệ tạo sự nghiệp cho bản thân, từ nay quý huynh đệ lấy cơ sở này làm nương rẫy để sống, lo luyện tập võ nghệ đề phòng giặc Hán, sau này sẽ được tuyển vào quân binh cùng chung xây dựng Nam Việt. Nay thay đổi nơi này thành Lạc dân Mạch Tứ.

Tất cả Lạc dân Mạch Tứ đồng thanh hoan hô :

― Từ nay chúng tôi xin đổi đời, trung thành Nam Việt, trả hiếu vua Hùng.

Mặt trận núi Mạch Tứ đem lại chiến thắng, nất là không có một tử binh nào. Lập tức Đại tướng soái Trần Anh Minh đưa tin chiến thắng báo về Tượng Quận Vương .

Đạo quân thứ nhì do đại tướng soái Từ Bình Cam, phó soái Lự Đại Ba, tiền đạo tướng Manh Bá Cao, tả đạo tướng Nam Tào Cường, hữu đạo tướng Trang Hoa Hào, hậu đạo tướng Mèo Bo Khan, nữ tướng lương thảo Bua Thái, và các tướng Lạc dân Nữ tướng Cà Châu Hà, Chẩu thổ Chi, Lềm Chí Ba, Lô Như Nguyệt. Tiến vào hai mặt bích núi Đô Di An đánh Chiếu Minh Giáo do họ Tiêu tên Đình Lân làm giáo chủ. Tiêu Đình Lân sống nhờ thủ đoạn, mưu gian mẹo vặt, mục tiêu hoạt động của y, khởi đầu mua chuộc người nhẹ dạ, sau đó đưa người thân của giáo chúng vào vùng núi Đô Di An để sống chung, trên trực tế là cả gia đình của giáo chúng phải sống trong vùng kiềm chế của Tiêu Đình Lân, khi đã vào thì không còn lối để ra.

Chiếu Minh giáo thu phục nhân tâm bằng thuật tà đạo, cầu cơ nói chuyện tàm phào như "Ngoại truyền chơn giáo", ai yếu lý trí, dù khôn ngoan đến mấy cũng dại khờ một khắc, quên thân xả lòng làm con thiêu thân, một khi đ ã  vào núi Đô Di An rồi thì hóa ra "Cay đắng ngậm cười trách ai" Xác ở núi Đô Di An, mà hồn phiêu phiêu, bạt bạt bay theo Chiếu Minh giáo làm trâu ngựa.

Ngày nọ, Chiếu Minh giáo không ngờ trong sào huyệt lại có một hiệp khách võ học tuyệt kỷ trốn được, ra khỏi núi Đô Di An, đó là Nguyễn Phi Ưng, ông vận hết nội lực khắc sâu vào tảng đá một tấc với lời rằng: "Hồn xác ai nấy giữ, đừng để Chiếu Minh giáo cướp đi, ma quỷ mượn lời trời đất, sát hại chúng sanh vô lường". Sau khi Chiếu Minh giáo tan rã, tảng đá này tồn tại dưới chân núi Đô Di An, cho đến ngàn năm sau vẫn còn lưu bút kiếm của Nguyễn Phi Ưng.

Đại tướng soái Từ Bình Cam, được giám binh Từ Chấn trình bày nội bộ của Chiếu Minh giáo :

― Thưa tướng quân, Chiếu Minh giáo bắc buộc giáo chúng phải đọc thuộc lòng bài kệ ma chú trong "Đại Thừa Chơn Giáo" họ còn nói rằng:– Những lời đó do tiên tri đức Chí Tôn ban bố", thực ra đó chỉ là những lời bịa đặt, do phàm phu tục tử Chiếu Minh giáo dựng đứng, họ lấy lời phàm giả ngữ Trời đất, quả là lòng gian trá, họ dựng đứng chuyện không nói có.

Tướng soái Từ Bình Cam nắm được tình hình nội bộ của Chiếu Minh giáo, ông khởi quân bao vây bốn cánh, Nam do nữ tướng Bua Thái, Bắc do nữ tướng Cà Châu Hà, Đông do tướng Chẩu Thổ Chi, Tây do tướng Lềm Chí Ba và tướng Lô Như Nguyệt tiến quần vào sào huyệt Đô Di An.

Trận đầu phá tan những phù chú ngũ sắc vàng, xanh, đỏ, đen và trắng treo trên những cây cồ thụ trong sào huyệt, như màu vàng biểu tượng "Thầy ngồi trước án ngó ra", màu xanh "Phúc xa mạng lịnh bửu tòa đem sang", màu đỏ "Nên cho lật đật giáng đàn", màu đen "Hồng mông phân định trược ly thanh", màu trắng "Quân tử tri cơ tất đạt thành".

Quân binh Tượng Quận tấn công thẳng lên phá tan những phù chú trên bích đá, dưới đất với những câu ám muội như "Đại thừa chơn giáo chuyển lần ba. Độ dẫn nhơn sanh đến bửu tòa. Lão luyện chơn thân hoàn chánh giác. Tổ truyền tâm pháp khả cần phanh".

Đại quân của tướng Manh Bá Cao, tả đạo tướng Nam Tào Cường, hữu đạo tướng Trang Hoa Hào, tấn công không gặp một cản trở nào, vào trận mới biết Chiếu Minh giáo bùa chú đọc như sấm không có linh hiệu gì, chúng giáo bỏ thầy, chào bạn đạo tan rã như ổ kiến hôi, đã đến giờ chết rồi mà các đạo trưởng, đạo huynh, đạo đệ trong ban trị sự còn lên đồng.

Một vài pháp sư còn đốt bùa, cầu cơ để hù những ông đạo mù quáng, đúng là phàm nhân bán đứng thánh, thần, tiên, trời đất. Đôi tay pháp sư Tiêu Đình Lân run lẩy bẩy vì sợ chết, nhưng muốn tạo ra lòng tin cuối cùng, nhằm tìm đường tẩu thoát, tay mò thần chú, miệng lép nhép giả vờ cơ chuyển, viết vào mẹt cát: "Đạo vô vi ta không làm cũng thắng". Một giám binh giả làm giáo chúng, đứng bên Tiêu Đình Lân, liền miệng công bố sự lừa đảo của cơ bút, với tiếng nói lớn nhằm để giáo chúng cùng nghe :

― Thưa toàn thể giáo chúng, chính pháp sư Tiêu Đình Lân làm gian tế Hán, y lắm mồm, nhiều miệng, lập cơ bút lừa đảo lòng tin cùa quý vị.

Cùng lúc đạo quân cánh Tả ập vào sào huyệt bắt sống hơn hai trăm gian tế, đem ra pháp trường trừ khử, thế là hết "Đạo vô vi ta không làm cũng thắng". Pháp sư Tiêu Đình Lân bị bêu thủ cấp dưới chân núi để làm gương soi cho kẻ khác . Một lần nũa tin thắng trận tại núi Đô Di An cấp báo về Tượng Quận Vương, trận chiến toàn thắng bắt được hơn bảy trăm giáo chúng.

Tướng quân Từ Bình Cam, an hảo giáo chúng :

― Bà con phục thiện đương nhiên được Tượng Quận Vương ân xá, như vậy bà con nào muốn về quê sống thì được cung cấp lộ phí, còn bà con nào muốn chọn nơi này lập cư thì được cấp phát các phương tiện canh điền, tuy nhiên bà con cũng được ưu đãi như toàn thể Lạc dân khác, không phân biệt đối xử, bà con tự do lập lấy người điều động sinh hoạt theo Lạc trang, nơi này đổi thành Lạc trang Đô Di An.

Tất cả Lạc dân đồng thanh vui mừng, tung hô :

― Từ nay bỏ tà qui chánh, nguyện sống theo "Cơm vua, lộc nước" nếu đất nước cần có Lạc dân Đô Di An tình nguyện đầu quân. Nam Việt Vũ Đế vạn tuế, vạn tuế.

Đạo quân thứ ba, do soái tướng Lê Trong Đại, phó soái Mai Công Quý, tiền đạo tướng Bế Hà, tả đạo tướng Hồ Tứ Thông, hữu đạo tướng Nguyễn Bả Tường, hậu đạo nữ tướng Nông Hoa Trinh, nữ tướng lương thảo Đèo Hoa và các tướng Lạc dân Lượng Thủ Tô, nữ tướng Nho Nhi, nữ tướng Panh Thư Hà, Xa Xi Quá, Xin Phù Cao.

Tiến quân vào núi Lin Căng, đánh cận chiến với Cao Thượng Bửu Tòa bang, do gian tế họ Tiêu tên Đình Dân. Lực lượng gian tế này sử dụng cả võ nghệ, bùa chú, trước khi xuất trận bang chủ độc thần chú, rồi phân phát bùa cho bang chúng, họ dán trước ngực và sau lưng, tin tưởng không một vũ khí nào xuyên qua thân thể của họ.

Quân Tượng Quận tiến vào như vũ bảo, không hề nao núng trước bùa chú treo lũng lẳng phất phơ theo chiều gió. Soái tướng Lê Trọng Đại, thúc quân binh đánh sát trận, hiện giờ đang tiến từng bước một vì địch thủ như kẻ đang điên. Phó tướng Mai Công Quý chuyển một cánh quân khác đánh vào hông địch. Đội ngũ tiền đạo của tướng Bế Hà, tay cung, tay kích tiến vào sao huyện từng bước một. Tả đạo của tướng Hồ Tứ Thông bám trụ phục địch, nhất là cánh quân làm mũi giáp công đã chiếm được thượng phong, tỉa dần từng cụm quân gian tế, đích thân tướng Lê Trọng Đại phi thân vào đánh mười hai thức năm quyền "Phi thần tiễn" long trời, lở đất, cây cỏ rung động "ầm ầm" đất bay mịt mù "ào ào" bang chúng Cao Thượng Bửu Tòa nghe cũng phải táng đởm.

Bang chủ Tiêu Đình Dân liền xuất đao chiêu thức "Thiên nha tướng" đánh cùng với tướng quân Lê Trọng Đại trên trăm hiệp chưa phân thắng bại, tướng quân Lê Trọng Đại thấy hạ được tên này cũng khó, ông liền bỏ quyền xuất song kiếm nội gia tuyệt học, hai mươi thức bảy chiêu "Hổ châu phố" tiếng kiếm đao "keng keng" có nhiều tiếng xẹt chưa đầy hai khắc lấy được thủ cấp Tiêu Đình Dân. Bang chúng thấy chủ soái hóa thành thây ma không đầu, chí khí hung đảng buổi đầu bây giờ biến mất, song kiếm của tướng Lê Trọng Đại đi đến đâu là thủ cấp rơi xuống đất.

Phó soái Mai Công Quý thúc quân binh mạnh vào bên sườn hôn trái, rồi chuyển qua phải, một mình đấu với hai địch thủ cộng lại nội lực như Tiêu Đình Dân, tuy có núng thế ban đầu, một khắc sau cũng lấy được vài xác địch, banh thây im lìm bên vệ đá. Cánh quân Phó soái Mai Công Quý vừa tiến vào khe đá, thì gặp phải Trần Đôi Thu là em vợ của Tiêu Đình Dân, đao pháp của y tuy chưa tuyệt kỷ nhưng nội công có thừa, đao kiếm qua lại trên tám mươi hiệp không phân thắng bại. tướng Bế Hà đang cằm kích trên tây phi thân vào trận, tức thì gặp Tiêu Đinh Thọ ứng chiến, tướng Bế Hà dụ địch quân vào điểm quân phục của tả đạo tướng Hồ Tứ Thông. Còn một cao thủ trẻ khác, tức là Tiêu Đinh Thi dù nội công như núi cũng phải tiêu hao nội lực dưới tay của tướng Hồ Từ Thông, lúc này tướng Bế Hà đem tuyệt chiêu lưới sắt, phi thân bổ lưới như ngư phủ hốt cá, Tiêu Đinh Thọ chết tươi trong lưới sắt, thân xác như thịt bằm vụn, bắt được hơn sáu trăm bang chúng còn dán bùa mê thuốc lú trên ngực, kiểm tra lại mới biết các tướng bên địch có những Trần Đôi Thu, Tiêu Đinh Thọ, Tiêu Đinh Thi đồng số phậm thăm Diêm Vương .

Tướng soái Lê Trọng Đại, vừa răn đe, vừa an hảo Lạc dân :

― Quý huynh đệ nào còn để bùa mê thuốc lú trước ngực đứng ra bên tay trái của tại hạ, vừa dứt lời, có hai mươi ba người đứng ra.

Tướng soái Lê Trọng Đại xuất song kiếm trảm chưa qua một khắc cả thảy đầu rơi từ từ xuống đất, số còn lại hơn hai trăm mạng, vội vàng tháo bùa mơ thuốc lú ra khỏi ngực. Tướng soái Lê Trọng Đại nói tiếp : – Còn ai tin bùa như phép hộ mạng xin mời ra thử kiếm của tại hạ.

Không một ai trả lời, ông nhìn xuống chân của bang chúng Cao Thượng Bửu Tòa thấy toàn là bùa. Ông hỏi tiếp:– Quý huynh đệ bị bọn gian tế làm phản, lấy bùa chú lừa bịp người, thế mà cũng tin cho bằng được, tại sao không dụng khả năng của chính mình để sống, tại sao không dụng trí tuệ để phán xét bàn môn tà đạo ? Hôm nay quí huynh đệ nào còn có ý tưởng thiên đàng của Cao Thượng Bửu Tòa bang, xin ra đây thử kiếm .

Tất cả bang chúng đồng suy nghĩ:– Có va chạm sự thực mới biết bùa chú không phải là thứ linh nghiệm để sống, âu cũng chung thủy quá tín ngưỡng và tin người mờ bóng Đạo, lòng nhẹ dạ để cho Cao Thượng Bửu Tòa bang bịp bấy lâu nay, quả là hổ thẹn, thì ra có trận chiến này mới mở tầm mắt, mới biết đâu là chân lý, đâu là lấy đạo bịp đời !

Một lần nữa, Tướng soái Lê Trọng Đại, dõng dạc tuyên bố :

― Kể từ hôm nay quý huynh đệ phải nhất tề hối cải, thì được ân xá, làm lại Lạc dân bình thường, dưới sự bảo trợ lập cư của tướng Lượng Thủ Tô, nữ tướng Nho Nhi, nữ tướng Panh Thư Hà, tướng Xa Xi Quá, tướng Xin Phu Cao. Nói chung từ nay quý huynh đệ muội xem việc Lạc dân như việc nước.

Tất cả Lạc dân đồng thanh hoan hô :

― Nam Việt Vũ Đế vạn tuế, vạn tuế, Tướng quân, anh hùng Tượng Quận công chính.
Thắng trận chưa kịp báo về Tượng Quận, tức khắc được lệnh chuyển quân đánh vào sào huyệt núi Li Khu của Bạch Y Chơn Lý giáo, giáo chủ họ Hoa tên Duy Hậu. Sử dụng đầu lâu người khuất mặt làm bùa chú, đầu lâu phát ra tiếng rít "hù hù" do gió lộng đi qua đỉnh núi tạo ra âm thanh, tùy thuộc vào gió nhiều hay gió ít, âm thanh có lúc hú rít lên to nhỏ, kéo dài, kéo ngắn, tiếng hú tự động có nhiều cường độ khác nhau không bao giờ ngừng, người yếu đuối, nhẹ dạ, nghe qua mất bình tĩnh, tinh thần bị mê hoặc.

Trên núi Li Khu chia ra làm hai cảnh giới. Thiên thai giới ở gần giáo chủ, ngạ quỷ giới ở sâu núi. Ngạ quỷ giới là nơi cư trú của những người mới đến và người ở lâu loạn trí. Nơi đây thử thách tâm thần bằng tiếng hú của ngàn đầu lâu, môn đồ chấp nhận hiến thân làm kẻ sai khiến, ngoan ngoãn vâng lời huynh sư trưởng. Môn đồ ở ngạ quỷ giới một thời gian dài, muốn lên thiên thai giới phải chịu bao nhiêu dâng hiến cá nhân, sau đó mới chính thức được nhập môn cầu đạo, tuyên thệ trung thành muôn năm với giáo chủ Bạch Y Chơn Lý.

Soái tướng Lê Trọng Đại, được giám binh báo trình tỷ mỉ về sinh hoạt của bọn gian tế Bạch Y Chơn Lý giáo tại núi Li Khu. Ông quyết định trận này giao cho nữ tướng Nông Hoa Trinh làm tiền đạo, tả đạo tướng Bế Hà, hữu đạo tướng Nguyễn Bả Tường, các tướng còn lại phục binh như phó soái Mai Công Quý và tướng Hồ Tứ Thông.

Nữ tướng Nông Hoa Trinh mở đầu trận chiến đánh vào Ngạ quỷ giới. Nữ tướng xuất lệnh quân binh bôi lên mặt bột than lọ củi, đột nhập vào Ngạ quỷ giới trước, rồi di chuyển qua những lỗ thông gió, phá hủy tất cả đầu lâu.

Từ trên đỉnh có một tiến tù và, phát lệnh toàn quân binh đánh xuống, mở được cửa Ngạ quỷ giới, không gặp cản trở nào. Bỗng nhiên toàn giáo chúng không còn nghe tiếng Ngạ quỷ, nhưng thấy toàn mặt đen xuất hiện, vốn đã sợ cho nên tất cả bỏ chạy tán loạn về hướng Thiên Thai giới, tạo ra cảnh hỗn độn trong doanh trại, giáo chúng lo sợ mặt đen từ trên đầu lâu xuất hiện. Giáo chủ, trưởng giáo và giáo chúng hoang mang, đạo binh mặt đen chạy vào Thiên Thai giới, cũng đúng lúc phục binh của các tướng phó soái Mai Công Quý và tướng Hồ Tứ Thông đánh vào, còn tướng hữu đạo Nguyễn Bả Tường thì chiếm đóng Ngạ Quỷ giới.

Nội bộ Bạch Y Chơn Lý giáo phản ứng không kịp, giáo chúng hỗn loạn không còn thần trí điều động. Kết thúc trận chiến không đầy nửa buổi đã bắt hết toàn bộ gồm giáo chủ, giáo trưởng, ban trị sự. Giáo chúng trở thành một bầy ngơ ngáo.

Soái tướng Lê Trọng Đại ra lệnh thanh lọc hàng ngũ. Bắt những phần tử thừa thải xã hội, như giáo chủ Hoa Duy Hậu, mười chín tay chân trưởng giáo, năm mươi phó giáo trừ khử trước, giáo chủ Hoa Duy Hậu hy vọng được tha tội, tự khai hết những hành động của ông cùng với trưởng–phó giáo đã từng hợp tác làm gian tế cho Hán.

Quyết định của soái tướng Lê Trọng Đại, truyền không tha một gian tế nào và ra lệnh tử hình bảy mươi cao thủ đại bịp, giải tán Bạch Y Chơn Lý giáo tại núi Li Khu.

Thành phần còn lại tổng cộng tám trăm ba mươi hai người nguyên là nạn nhân của Hoa Duy Hậu. Soái tướng Lê Trọng Đại ra lệnh đưa tám trăm ba mươi hai người khờ khạo thăm viếng lại Ngạ Quỷ giới. Lúc này mọi người mới thực sự tỉnh ngộ, biết rõ ý đồ Hoa Duy Hậu dùng đầu lâu, mượn gió làm phép sai khiến người, quả thực y là người dùng kỹ thuật công cụ sinh ra tài phú, cắt đứt hầu bao của người tri giác đơn thuần. Có những thanh niên sinh ra và sống ở đây không biết thế giới Nam Việt như thế nào !

Soái tướng Lê Trọng Đại ra lệnh phá hủy Ngạ Quỷ giới, để lại Thiên Thai giới, lập cư mới lấy tên Lạc trang Đời mới, ngày sau người ta thường gọi Lạc trang Đời Mới, tại núi Li Khu sống bằng nghề nông nghiệp, ruộng lúa nước trải theo triền núi, có nơi gọi là lúa trời.

Soái tướng Lê Trọng Đại còn ra lệnh Lạc trang Đời Mới từ đây không được làm nhiểu dân lân cận.

Đạo quân thứ tư, do soái tướng Quảng Minh, phó soái Cầm Con, tiền đạo tướng Lý Kha, tả đạo tướng Bun Ca Thọ, hữu đạo tướng Vũ Bảo Cường, hậu đạo tướng Mạc Di Há, tướng Nguyễn Hân phụ trách lương thảo và các tướng Lạc dân Phia Hụ, Phìa Tương Da.

Quân binh tiến vào sào huyệt Dao Tông, diệt trử Bạch Y Chơn Lý giáo, do họ Hoa tên Duy Bấu làm phó giáo chủ, em của Hoa Duy Hậu. Chuyên dùng thuật "Chiêu hồn sai binh" lực lượng của Hoa Duy Bấu chỉ có hơn ba trăm người, đóng trại rải rác khắp núi Dao Tông.

Soái tướng Quảng Minh nắm trong tay sơ đồ doanh trại Dao Tông và qui luật sinh hoạt của bọn Hoa Duy Bấu. Ông chia thành hai mũi tiến công vào trận chiến, đánh đêm chỉ dùng một trăm quân giám binh thiện chiến, đích thân ông chỉ huy, vốn ông biết thiên văn hiểu thuật chiêu hồn sai binh. Xuất quân vào giờ "Thái sơ" thì thắng, vì chu kỳ chuyển động trong vị trí của thiên thể, đây là thuật trận "Thái sơ" như người ta nhìn theo gốc cạnh trong kinh "Thái thượng lão quân".

Còn thuật trận của Hoa Duy Bấu "Chiêu hồn sai binh" phỏng theo "Cảnh Giới Âm Phủ Phổ" của tác giả Lô Tử Công, nguyên là thầy pháp .

Soái tướng Quảng Minh dùng trận "Thái sơ" lập trận, thử xem tài cáng của Hoa Duy Bấu đã đến cảnh giới nào. Thực ra ông thừa biết thuật "Chiêu hồn sai binh" không sử dụng được ban ngày, tuy vậy ông vẫn bày trận đánh đêm.

Đúng tám giờ tối ông chỉ huy ba mươi binh sĩ, và một ngàn quân hình nộm làm bằng rơm tiến vào trận, đánh với hai trăm quân của Hoa Duy Bấu, quân của ông chỉ được la hò hét, cùng với tiếng phèng la và trống trận.

Từ xa trên lưng núi Dao Tông vang động tiếng hò hét, phèng la, trống trận, lửa cháy khắp lưng núi cho đến canh năm mới được lệnh rút quân.

Sáng sớm hôm sau soái tướng Quảng Minh truyền lệnh cho phó soái Cầm Con chỉ huy trận chiến, tiền đạo tướng Lý Kha, tả đạo tướng Bun Ca Thọ, hữu đạo tướng Vũ Bảo Cường, hậu đạo tướng Mạc Di Há.

Bầu trời còn sương giá mù dày đặc, binh mã tướng soái Quảng Minh xuất trại, đánh vào sào huyệt của Hoa Duy Bấu. Như đã định binh sách, tiến quân thần tốc đánh trước địch, không sai quân đến đâu bắt sống địch đến đó, đến giờ ngọ là đã san bằng được sào huyệt Dao Tông, bắt sống hơn hai trăm giáo chúng.

Hoa Duy Bấu chưa kịp hân hoan và tự hào trận chiến tối hôm qua, chính ông điều binh khiển tướng chỉ cần hai trăm quân Dao Tông đối đầu một ngàn quân Tượng Quận, quân Tượng Quận không phá được biên phòng thủ thứ nhất thí làm sao vào được sào huyệt.

Hoa Duy Bấu chuẩn bị cho khao quân, xem đây là chiến thắng trận đầu. Ông ra lệnh dưỡng binh, chờ giờ ngọ binh mã xuống núi.

Có tin cấp báo ông mới vỡ lẽ, không ngờ trận chiến đêm qua chỉ là hư. Thế mà trước đây một khắc ông suy nghĩ quân Tượng Quận chỉ có tài miệng phèng la. Hoa Duy Bấu đứng trước giáo chúng, ngỡ ngàng lòng ái ngại như sắt sợ vô lò.

Soái tướng Quảng Minh chiếm được núi Dao Tông vào đúng thời ngọ và đưa Hoa Duy Bấu ra trước pháp trường trảm. Soái tướng xuất lệnh lập tịch Lạc dân trả về quê quán, toàn giáo chúng sợ hải đồng thề :

― Xin thề và hứa từ nay không tham gia làm phản.

Núi rừng Dao Tông trở lại yên tĩnh, vĩnh viễn không còn bóng Bạch Y Chơn Lý giáo ở nơi này.
Đạo quân thứ năm do soái tướng Tạo Trà, phó soái Sầm Thương Đa, tiền đạo tướng Pha Khô, tả đạo tướng Nhật Cổ Thi, hữu đạo tướng Ngưu Vu Độ, hậu đạo tướng Mè Đình Khả, lương thảo tướng Lộc Trường, cùng các Lạc dân nữ tướng Quàng Bo, tướng Tày thô Tô, tướng Vang Phước. Đồng tiến đánh Liên Hòa Tổng Hội, do hội chủ Lý Tư Chữ làm lãnh tụ, Liên Hòa Tổng Hội lấy eo núi Động Châu thuc ngọn núi Lu Di làm sào huyệt .

Lý Tư Chữ học kinh dịch từ thầy làng, sau gặp một gian tế Hán chỉ thêm cách bói tướng số và thủ thuật "Ngọt mật chết ruồi" từ ấy liên hệ mật thiết với người Hán. Vốn tính của Lý Tư Chữ thấy duy lợi là nhận, duy đức thì bỏ. Ông lập ra Liên Hòa Tổng Hội vì mục đích duy quyền giáo chủ muôn năm. Ông còn duy tình, tiền ra vào như một tài phú .

Lý Tư Chữ thường bảo giáo chúng rằng :

― Liên Hòa Tổng Hội chỉ chứng công quả vật chất, còn thể xác chứng sau. Muốn được hưởng phước đức đời đời và cho con cháu mai sau, thì phải tuân mười điều giáo luật.

Về gia thất của Lý Tư Chữ có bảy bà vợ trẻ, đời sống trên núi không khác nào một đại vương gia. Ông hứa hẹn với đảng chúng. "Mai sau ông sẽ phân phát cơm vua, lộc nước". Đối với người chân chất, thực thà nghe qua bổng lộc là xem ông như thánh sống, vội vàng xin ông thu nhận làm đệ tử, tính đến nay Lý Tư Chữ thu nhận trên bốn trăm đệ tử .

Hình hình thuận lợi cho nên Soái tướng Tạo Trà, đánh thẳng vào eo núi Động Châu, với một lược lượng quân binh võ nghiệp hoàn chỉnh, còn bên của Lý Tư Chữ là một đội ngũ ô hợp quân sĩ bằng giấy, soái tướng bằng đất sét, phần đông nữ nhiều hơn nam, cho nên sào huyệt nhanh chóng tan rã. Bắt được Lý Tư Chữ cùng sáu giáo trưởng của Liên Hòa Tổng Hội đem ra xử tử, còn tên gian tế Hán chạy thoát, điều tra không ai biết họ tên của y.

Soái tướng Tạo Trà ra lệnh tìm tên gian Hán. Tướng Tày Tô Thô liền thông báo :

― Đúng là tên gian Hán, giả làm tiều phu đã xuống núi tối hôm qua.

Mặt trận Dao Tông báo tin về Côn Minh, Mân Việt Vương phái giám binh tróc nã gấp tên gian tế Hán. Bình định được núi Dao Tông, tướng soái Tạo Trà ra lệnh cho đệ tử của Lý Tư Chữ lập tờ tịch Lạc dân, sau đó được ân xá, trả về quê quán sinh sống .

Riêng tại Tượng Quận thì có tứ trụ Mân Việt, do tướng quân nguyên soái Nguyễn Thành Trung, tướng quân tiền đạo Lê Bình, tướng quân tả đạo Trần Đông, tướng quân hữu đạo Đỗ Trương. Tảo trừ trung tâm gian tế Đại Đồng Công Dụng do họ Trần tên Trung Việt, hoạt động bí mật tại Côn Minh.

Địa chỉ Phụng Cát Tửu Lầu là nơi hoạt động bí mật của Đại Đồng Công Dụng, ở đây che mắt được quân quan Tượng Quận hơn mươi năm qua. Phụng Cát Tửu Lầu có ba dãy lầu, Trung tâm và Tây-Đông lan, nổi tiếng là nơi ăn chơi lịch sự nhất Côn Minh, mỗi ngày tiếp trên năm trăm khách ra vào tấp nập.

Muốn khám phá tổ chức Đại Đồng Công Dụng không phải là dễ dàng, việc khẩn cấp không cho phép thời gian chậm trễ.

Mân Việt Vương xuất lệnh, quân binh của bốn tướng chủ lực Tượng Quận phong tỏa Phụng Cát Tửu Lầu vào canh hai, lệnh phong tỏa nội ngoại Phụng Cát Tửu Lầu, bằng năm chốt phong tỏa. Không một người nào được ra khỏi phòng, lục soát tỉ mỉ phòng buồng, lập tịch khách trú, cô lập chủ Phụng Cát Tửu Lầu, nam nữ tửu bảo, bắt được hai mươi ba người Hán đang ở dưới hầm kín, riêng tên gian Trần Trung Việt không có mặt, một lần nữa được xem như cao bay xa chay.

Tướng Tày Thô cho giám binh về Côn Minh cấp báo, người Hán tên Trần Trung Việt vào eo núi Đông Châu, sau đó giả làm tiều phu xuống núi Lu Di, y có mặt tại Phụng Cát Tửu Lầu nhưng không tìm ra vết tích hay nơi ẩn náu, hiện không ai biết y ở đâu.

Mân Việt Vương Phùng Nam, xuất lệnh niêm phong, tịch thu giấy tờ, sách vở, hóa đơn, tài sản, ngân kim xung công vào kho Mân Việt. Cuối cùng vẫn chưa tìm được tên Hán gian Trần Trung Việt và người chủ Phụng Cát Tửu Lầu cũng mất tích .


HuỳnhTâm



Chương 9
Võ Môn Lạc Việt Khởi Anh Hùng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét