Kho Tàng Việt Vương - Chương Bảy ( Huỳnh Tâm )


Ấn Vàng Một Quả Kiếm Hùng Tam Thanh

Nam Việt Vũ Đế lập đàn chủ lễ, Nam Vương Phùng Nam, Tượng Quận Vương, Trường Sa Vương, Nam Hải Vương, Giao Chỉ Vương, Cửu Chân Vương, Nhật Nam Vương, Đông Hải Nam Vương, Tây Hải Nam Vương, Hoàng Hạc thay mặt Lạc dân đồng phó đàn anh hùng Nam Việt.
Lập đàn tháp ghi ơn thập nhất anh hùng tuẩn quốc, tháp bằng đá thạch ngọc màu xanh tiên thể, rộng lớn, cao uy nghi, tú lệ, mang dòng chữ "Lĩnh Nam Anh Kiệt". Toàn dân đi ngang phải nghiêng mình kính cẩn.
Bài vị ghi danh Thập Nhất Anh Hùng Nam Việt :
– Trịnh Đình Thao, Chu Thanh Thủy, Chu Ngọc Thủy, Lê Trung Kha, Nghiêm Hà Đức, Lý Hòa Dũng, Lạc Thạch, Mân Lạc, Lạc Đức, Đinh Bình Nhi, Tô Tứ Minh.
Ngày sau Đại Tường bài vị đặt tại Văn võ Miếu. Nam Việt Vũ Đế xuất chỉ dụ, phong hầu Lạc Việt tướng quân Phùng Nam làm Phó Nam Vương trị chính phía Nam gồm Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Vũ Đế thực hiện lời hứa trước anh linh thập nhất anh hùng và toàn quân dân Nam Việt tham dự trận chiến biên giới. Toàn thể anh hùng, quân dân có công tuân chỉ vào Điện Thái Hòa tiếp nhận lễ vinh thăng, bổng lộc và được thưởng rượu Vĩnh Hòa .
Tiếp theo Quốc sư Hoàng Hạc phân phối trên sáu ngàn chiến mã cho mỗi tướng sĩ có công đầu trong trận biên giới, quân binh lớn nhỏ đều có phần thưởng, lễ hội chiến thắng tưng bừng.
Nam Việt toàn vẹn lãnh thổ, Lạc dân từ Bắc xuống Nam sinh cưa lạc nghiệp, đời sống sung túc hơn trước, dẹp được hoạn quan, tham ô, nhu nhược, hoàng thân quốc tích không còn quyền thế như trước và bọn mãi quốc cầu vinh bị trừ diệt.

Trận chiến biên giới Bắc–Đông đã tàn, không ngờ có một thiếu phụ ngồi bất động, ôm đứa con trai ba tháng tuổi, khóc "hu...hu..." vì tướng công đã tử trận.
Lệ rơi đầm đìa che phủ cả trần gian, lòng tối như chốn không nhân sinh, tiếng than trầm mặc, âm thanh ảm đạm thê lương, thở dài tiếc núi phận mệnh đeo đuổi anh hùng vắng số.
Người thiếu phụ khóc lớn tiếng:
― Nay thiếp nhớ mãi và nhớ rất rõ ngày ấy, có một thanh niên bị hai vết thương trên vai và một vết thương khác trước lòng ngực, khi ấy muội không biết từ cõi nào đến một chàng trai nhờ muội chữa trị, khi cởi áo đầy liễm mấu, cũng là lần đầu tiên hai tay muội chạm vào thân thể người thanh niên xa lạ, cảm thấy như trời sụp đổ, muội tản lãnh nhưng lòng như bình thản, tuy thấy vết thương chàng quá nặng, nhưng thân hình rắn chắc, vạm vỡ, gồ lên từng ấy bắp thịt, vai vộng, chàng nhắm mắt ngất liễm, như người thả lỏng nội công, mồ hôi toát ra thơm kỳ diệu, hai tay muội lau rửa và thoa thuốc "Hoàng Hổ Cao" cho huynh, sau đó vết thương trên vai, lòng ngực của huynh đã khô và đóng vảy, lúc ấy huynh tỉnh lại, thấy đôi mắt huynh tròn xoe, môi chàng tủm tỉm cười tạ ơn, đôi má muội hồng hồng lòng muốn nói nhưng miệng khó nên lời.
Ngày trôi qua mới biết huynh là Hoàng Đức bang vang danh kiếm pháp, huynh bị thương vì xã tắc, mưu cầu hạnh phúc cho người. Không bao lâu vết thương trước lòng ngực lành lại hoàn toàn, muội không còn thấy những cái vạm vỡ ấy nữa, muội mới biết thèm thuồng và muốn khám phá uy lực trên thân thể của huynh, từ ấy muội cảm thấy yêu huynh tha thiết.
Một hôm lòng muội bơ vơ, chân cứ bước theo vòm trời trăng sao, từ xa muội nghe huynh thì thầm :
"Thương em nhớ quế hương gừng
Tỏa ra anh biết ngát lừng trời mây
Nhớ em mê mẩn tỉnh say
Hỏi em tình ấm mượn đầy tim chưa".

Thì ra huynh đang ở bên muội, hôm ấy lòng muội như đang nổi rét, huynh cầm lấy tay lòng ấm lại, từ ấy huynh và muội bay bổng vào không gian, rồi tình thê phu nối tiếp bình an, sinh được một hài nhi chàng gọi tên là Trịnh Đình Thông. Muội rất tự hào, phu quân làm trai anh hùng, giờ ngồi đây muội hóa phận trầm mai. Phu quân ơi ? Đi xa không trở lại, thiếp sống làm sao được khi vắng bóng người. Thân muội nhờ núi, núi rỗng, nhờ nước, nước trôi nay chỉ còn hài nhi là nguồn sống duy nhất, muội nhớ chân dung chàng tạm ấm áp lòng. Muội phải sống vì hài nhi là tạo hóa của chàng, muội phải sống thay lời chàng trừ giặc Hán.
Thiếp cùng Thông nhi phải sống "hu...hu..." Tiễn chân phu quân nhẹ nhàng vào cõi siêu tại, hưu mỹ.

Sau cuộc chiến biên giới đến hồi an hưởng thanh bình, Nam Việt đi vào xây dựng đất nước. Hoàng Hạc khởi đầu sử dụng kho tàng nhằm phát triển đất nước, qua sự phê chuẩn của Nam Việt Vũ Đế. Tuy đã có một kho tàng trên tay nhưng sử dụng thế nào cho hợp lý, không bị phá sản một cách phi mã. Lần đầu tiên quốc sư Hoàng Hạc đem kho tàng vào việc mua trên sáu ngàn con chiến mã tặng tướng sĩ tham dự trận chiến biên giới, mục đích khích lệ quân binh sĩ, đồng lúc tạo ra phương tiện cho quân cơ phòng thủ cả nước.
Chiến mã trở thành phương tiện di chuyển và tác dụng an ninh Nam Việt. Hoàng Hạc đi qua Hán mua chiến mã khoẻ giống tốt, lập trại nuôi gầy giống, khởi đầu mua chín giống cái, một giống đực. Đặc biệt Vũ Đế ban chỉ dụ lập danh bộ phân phối chiến mã, lập tịch sinh và tử chiến mã. Mỗi binh sĩ được làm chủ chiến mã nhưng không được bán, chiến mã bị bệnh thì đem đến trại chăn nuôi để chữa trị, chiến mã bị chết thì được cung cấp lần thứ hai, cho phép gầy giống kinh doanh tự do.
Đời sống tinh thần của toàn Lạc dân hưng khởi hơn trước, lý do là Nam Việt Vũ Đế dẹp được loạn hoạn quan, tham ô, nhu nhược, hoàng thân quốc thích không còn quyền thế như trước, bọn mãi quốc cầu vinh bị trừ diệt, nay Nam Việt trải rộng quyền cai trị mới, lập tướng quân Phùng Nam làm Phó Nam Việt Vương kinh đô Nam ở Đại La, cai trị từ Long Biên đến Nhật Nam.
Nam Việt Vũ Đế hỏi Hoàng Hạc :
― Quả nhân thấy khanh tặng hơn sáu ngàn tuấn mã tạo phương tiện phòng thủ, công việc lập trại chăn nuôi, trị liệu, lưu giống đó là một sáng kiến rất hay, giá phòng trước đây mà có chiến mã như thế này thì binh mã Nam Việt hùng mạnh biết mấy .
Quả nhân hỏi khanh chi phí ấy lớn lắm, chính kho dự trữ kim ngân của triều đình xuất hết cũng không mua được từng ấy chiến mã, nay tạo được binh hùng tướng mạnh như vậy quả là khanh đã hy sinh nhiều lắm, hai nữa chiến trận vừa qua giá mà không có khanh thì khó chiến thắng được, điều này ai cũng biết tài chước lược của khanh đúng là háo tình tráng khí, tấm lòng lân tài an dân. Nay tự đáy lòng quả nhân tha thiết muốn cầu khanh tiếp nhận quyền trị quốc, quả nhân trao ấn kiếm cho khanh, ý khanh thế nào ?
Hoàng Hạc lật đật quỳ xuống đất bái lạy, miệng tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ, thần dân nay đã quá bách niên rồi còn ham muốn gì mà ấn kiếm với ngai vàng, trời sinh ra nhập thế việc nào người đó, mỗi người có một giá trị riêng.
Điện hạ nghĩ xem, làm vua rất khó và do số mạng trời đã định, không một ai muốn mà được, giá như có kẻ muốn đoạt ngôi, soán đế danh cũng không thành, nếu có thành thì lịch sử cũng không để yên, hạ thần và cả gia quyến chỉ xin làm tôi trung hiếu Bách Việt là đã mãn nguyện lắm rồi. Điện hạ có thương yêu hạ thần thì bỏ qua suy nghĩ chuyển ngôi, vả lại ngày nay Nam Việt đã có kỷ cương vương pháp mới.
Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ. Nam Việt cần có một Hoàng đế tốt yêu dân, can đảm, cương quyết, dám dấn thân và hy sinh, duy chỉ có điện hạ mà thôi, chính điện hạ ngự triều tại thành Phiên Ngung cai quản cả nước, còn đất Phong Châu là địa danh Đại La do phó Vương Nam Việt Phùng Nam cai quản Giang Nam, đó là sức mạnh của Nam Việt ngày nay.
Nam Việt Vũ Đế vẫn có những âu lo khác nói :
― Quản nhân nghĩ rằng sơn hà xã tắc trông cậy vào thời sinh này, nhưng quả nhân không làm được việc gì hữu ích cho lắm, cũng không để lại cho mai sau một giang sơn gấm vóc hùng vĩ thì đáng tiếc lắm vậy !
Hoàng Hạc nghe Nam Việt Vũ Đế than thân trách mệnh cửu trùng, rồi nghĩ thầm:– Tại sao nhân dịp này mình chưa đưa ra phương thức tích tụ tại phú, để thi hành hoàn chánh thì may ra Nam Việt Vũ Đế hạ chỉ cho mình được tự do thực hiện nguyện vọng của Phi Bằng nhi. Hoàng Hạc liền trình tấu :
― Muôn tâu Hoàng thượng bệ hạ, tiểu thần xin trình tấu một kế sách "Dân Di Bản, Phú Tắc Cường" hạ thần khao khát thực hiện kế sách đúng với thần dân Nam Việt đang cần. Nhằm thể hiện trung hiếu Quân thần, thì lòng thần mới an. Trình tấu tiếp:– Muôn tâu Bệ hạ, nên xuất chỉ dụ về Thất chế, nhằm khuyến khích Lạc dân, phát triển kinh doanh, nghề nghiệp chuyên môn, sản xuất, khai khẩn thổ canh, giao thương lân quốc.
Triều đình qui định sách trị quốc, cung cấp phương tiện giáo huấn, bải miễn Vương thổ, phân phối tài sản quốc gia cho Lạc dân toàn quyền làm chủ điền trang, điền thổ, trạm dịch v.v...
Thực hiện được "Dân di bản cũng cố an ninh, dân phú tắc đắc cường". Bát sách "Cải thiện dân chủ nhân sinh" gồm có :
– Nhất Nông Xuất: Khai khẩn ruộng nương, đất vườn, rẫy bái, nuôi tơ tầm. Chiếu theo qui canh điền, điền thổ phân phối hạt giống ngũ cốc, cây trồng.
Chăn Nuôi: Lạc dân từ mười tám tuổi trễ lên phân theo quy định sản xuất, mỗi gia đình được phân phối như gà, vịt, heo, bò, trâu v.v... Lương thực nuôi gia súc cung cấp miễn phí ba năm. Tất cả gia súc được triều đình mua lại với giá cao.
Rừng và lâm sản: Lập điền thổ Lạc dân thay vì điền thổ Hoàng triều, khai thác tược nuôi trồng cây đa niên, trồng cây sản xuất binh khí. Bảo vệ rừng thiên nhiên và thú rừng.
Ngư Nghiệp: Chiếu theo qui định cung cấp phương tiện ngư nghiệp, như tơ đan lưới, gỗ làm ghe thuyền. Lạc dân trên mười tám tuổi được cung cấp toàn bộ phương tiện ngư nghiệp, đóng thuyền to nhỏ tùy theo kết hợp Lạc dân, cá được bán trong nội địa và các lân bang.
– Dẫn Thủy Nhập Điền: Cung cấp nước cho trồng trọt, nông nghiệp, ngư nghiệp, chăn nuôi. Vận động Lạc dân sản xuất thủ công nghiệp.
– Vũ binh, tuyển hiền tài: Lập võ nghiệp đường, lò đúc và sản xuất binh khí, đào tạo Lạc dân thông thạo việc binh, luyện tập Lạc dân tự đối phó với người Hán, lập sở đóng thuyền chiến, nuôi và mua chiến mã.
– Quân Kho: Dự trữ ngũ kim vàng, bạc, thép, đồng, chì, thau, kẽm mua từ Trung nguyên chở về nước. Mỗi Vương phủ lập kho dự trữ riêng, như dự trữ quân dụng, binh khí, lương thảo, chiến mã.
– Giáo Dục. Thi cử hiền tài trí sĩ, đào tạo văn nhân, võ bị bổ dụng làm quan, lập cơ sở kinh doanh, giao dịch, khuyến khích Lạc dân hướng về quyền công dân.
– Ni Trị: Hoàng chánh vì cho dân, thưởng phạt, bổng lộc minh chính, bổ dụng thay cũ đổi mới quan trường, lập nhị đô Bắc có Phiên Ngung và Nam có Giao Chỉ. Trùng tu thành trì cũ mặt Bắc, xây dựng thành mới mặt Nam, riêng Phiên Ngung xây dựng vòng thành thứ ba. Nghĩa vụ Lạc dân bảo vệ đất tổ và muôn dân đối với Nam Việt một nhà chung.
– Giao Hảo Lân Bang: Triều cống phẩm vật lẫn nhau, thỏa hiệp an ninh biên giới, trao đổi văn hóa, giao dịch hàng hóa, bán binh khí.
Dùng ngũ kim, danh lợi sai khiến quan trường Trung nguyên, kết giao giới giang hồ tặng kiếm, đao, thương.
Trọng hiền đãi trí sĩ lân bang, nhất là nhà Hán để không còn ai màn đến chính sự.
– Hợp Việt Xuất Hán: Bổ dụng và tuyển mộ người tài đức lập ra nhân xã, nay đất nước cần những sĩ chí hợp nhất Bách Việt, xóa bỏ dị biệt của quá khứ, khuyến khích Lạc dân xây dượng đất nước trên căn bản giải không kết và cả quyền cai trị nước phải lệ thuộc vào Lạc dân, gọi là hợp để thực hiện theo ý chí của Lạc dân, triều đình chia sẽ quyền lợi cho Lạc dân vào không xâm phạm quyền sống của Lạc dân.
Đã là Bách Việt lấy giải để chung sống một nhà, giải đi trước nước hợp theo sau. Cõi Lĩnh Nam là của Bách Việt không riêng của một ai, văn hiến Hùng Vương là mục sống máu đào Nam Việt.
Nói chung đất nước đã giải thì hợp không khó, nếu không giải được thì hợp bất hòa. Nam Việt cần một khối Bách Việt, không phân biệt hay chia cắt, tránh được tranh chấp trong tương lai, tránh được mọi tổn hại sau này, lòng yêu sông núi không bị suy giảm, Nam Việt mới được mọi người cảm nhận, như một tình yêu Việt không thể thiếu, nói chung đất nước Nam Việt phát minh lòng yêu thương xã tắc. Lạc dân làm chủ những biến cố lớn nhỏ và chấp nhận mọi thử thách, nhất là Lạc dân tự do tạo nghiệp, mỗi Lạc dân yêu nước theo cách nhìn của mình.

Ý của Hoàng Hạc đưa ra Bát sách cải thiện nhân sinh và trị chính mới, mục đích làm cho dân giàu nước mạnh mà không hết kho tàng, người mưu trí mỗi việc đều nằm trong thuật xếp đặt để đạt thành công.
Nam Việt Vũ Đế lắng nghe Hoàng Hạc trình bày Bát sách, như trong lòng từng vọng cầu phép lạ từ lâu. Vũ Đế ngồi suy nghĩ, hai tay bưng ly rượu Phỉ Thúy nhâm nhi, rượu vào thì sầu tràng tuôn ra, vì ông thừa biết Bát sách khó thành công, tuy vậy cũng là dịp tâm ý tương thông, hiểu được kiến văn uyên bác của Hoàng Hạc đương nhiên là người tâm đắc .
Vũ Đế buông một tiếng thở dài :
― Quả nhân thuận tấu Bát sách "Dân di bản, phú tắc cường" của hiền khanh, đó là phép lạ dân giàu nước mạnh, như quả nhân từng nuôi trong tư tưởng "Nông phát xuất, tắc ban kỳ thực, công xuất tắc kỳ sự".
Nhưng khổ thay kho dự trữ kim ngân của Nam Việt không còn là bao, quả nhân đã trình bày rồi !
Nhân đây nói thực để hiền khanh hiểu, quả nhân đã xuất chỉ dụ không cho Hoàng Triều tự xuất tài sản đó, muốn xuất kim ngân vì mục đích Nam Việt phải được cả triều đình phê chuẩn, hiện nay trong kho có nhiều kim ngân, vật quý cũng nhờ thu nạp được tám mươi bốn tên mãi quốc cầu danh và trên hai ngàn gia sản quan lại tham ô, sâu dân mọt nước, quyền thế chia phe lập đảng phản quốc. Một số tài sản khác của Tôn Nhân Phủ cũng được sung công vào quốc khố, nếu nay xuất hết cũng không làm được một việc nông nghiệp. Hiện thời quả nhân cùng Tôn Nhân Phủ sống rất giản dị.
Hoàng Hạc xúc động trình tấu :
― Muôn tâu bệ hạ, quả là bệ hạ nhạy cảm xúc giác và tâm nhãn, chính là vị Đế Vương xuất tam bảo kỳ tuyệt, về bát sách mà hạ thần đã tâu. Nay hạ thần xin nhận trách nhiệm làm được lục sách, chỉ còn nhị sách Bệ hạ sẽ làm được.
Nam Việt Vũ Đế ngạc nhiên hỏi :
― Hiền khanh nói sao, quả nhân làm được nhị sách gì, dù có khó muôn lần quả nhân cũng không xá chi kiếp sinh này. Còn hiền khanh nhận làm đến lục sách ắt hẳn khác nào "đội đá vá trời", tại sao không tìm người để chia việc cùng hiền khanh ? 
Hoàng Hạc vui mừng xem như Vũ Để đã chuẩn chỉ, tâu tiếp :
― Muôn tâu bệ hạ chỉ làm được nhị sách như  Giao hảo lân bang, Nội trị bát phẩm triều đình, bổng lộc theo quy định mới. Cón lục sách hạ thần nhận thực hiện, không cần phải xuất kho kim ngân Nam Việt, triều đình cũng không cần phê chuẩn, còn phần chia việc làm cho ai thì hạ thần sẽ trình bày sau.
Nam Việt Vũ Đế lại càng ngạc nhiên hơn hỏi :
― Quả nhân làm việc Giao hảo lân bang, Nội trị thì không khó gì cả, quả nhân tiếp nhận nhị sách này, còn lục sách kia đụng vào là kim ngân tuôn ra như nước, dù có kho tàng cũng thực hiện không thành, hiền khanh lấy ở đâu ra mà thực hiện cái vung trời to lớn này ?
Hoàng Hạc thuyết phục được Vũ Đế cũng không phải là dễ, vì mỗi lời nói trước mặt nhà vua phải cuốn lưỡi mười hai lần, nếu lỡ lời không khác nào thủ cấp đang trên lưng bò gỗ .
Hoàng Hạc điềm tĩnh tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng bệ hạ, kinh phí trang trải cho lục sách do sư phụ của Hoàng Phi Bằng cung cấp, điều kiện xây dựng Nam Việt không được sử dụng riêng tư.
Sư phụ của Hoàng Phi Bằng dạy hạ thần đứng ngoài xưng vương, không vì tư lợi công danh và buộc hạ thần phải tuyên thệ: "– Tại hạ Hoàng Hạc, con dân Bách Việt họ Lạc Việt hứa với liệt tổ, liệt tôn thiêng liêng chứng giám lòng chung thủy bảo mật kho tàng cho Bách Việt, sử dụng kiến thiết sơn hà xã tắc, không vì riêng tư một hạt bụi nào của kho tàng, nếu có hai lòng thì trời đất trên dưới chứng giám soi xét đọa đày cả họ Hoàng nhà tại hạ đời đời kiếp kiếp không có một hạt ngũ cốc nào để ăn".
Sư phụ của Hoàng Phi Bằng còn dạy tiếp rằng: "–Kho tàng này chỉ tiết lộ cho Nam Việt Vũ Đế biết mà thôi, ngoài ra những thừa hành khác không được biết tài sản này từ đâu đến".
Nam Việt Vũ Đế nghe lời thề của hiền thần lòng ái ngại hỏi :
― Hiền khanh đã sử dụng kinh phí đó vào việc củng cố binh phòng thủ, đương nhiên khanh đã gặp được Người, nhân đây quả nhân cũng muốn đích thân thăm viếng và đa tạ Người, có như hế mới biết "Tre vàng lột vỏ".
Hoàng Hạc đương nhiên phải tráng né về kho tàng, liền tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng bệ hạ, đúng vậy, hạ thần đã sử dụng một số kim ngân của sư phụ Hoàng Phi Bằng vào việc củng cố binh phòng thủ. Trước đây hạ thần có thăm Người được một lần, nhưng chỉ thấy chân dung trong lờ mờ, chính Hoàng Phi Bằng là đệ tử cũng chỉ thấy Người như hạ thần. Người nói chuyện qua trung gian Hoàng Phi Bằng, nếu Bệ hạ muốn đến thăm Người thì chỉ có Hoàng Phi Bằng mới đưa Bệ hạ đi được mà thôi.
Nam Việt Vũ Đế cũng muốn biết thân thế sư phụ của Hoàng Phi Bằng là nhân vật nào, sao Người lại sống trong bí mật với một kho tàng cũng bí mật, nói tiếp :
― Hiền khanh an tâm, ngày mai quả nhân ban lục chỉ dụ để hiền khanh thực hiện xây dựng Nam Việt, nhưng muốn cho công việc được hoàn bích thì quả nhân ban phẩm quan thực thụ Quốc sư tại triều Nam Việt, ngoài ra trên tay phải có Thượng Phương Bảo Kiếm, toàn quyền trảm trước tấu sau, hiền khanh tùy ý chọn người thừa hành.
Nếu hiền khanh không có chức quan ở trên người thì "bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chánh". Theo sách có câu: "Danh bất chánh tức ngôn bất thuận, ngôn bất thuật tức bất thành" nếu không thì e rằng có lời dị nghị trong quan trường. Nay hiền khanh hãy tạm nhận lấy trách nhiệm này để thực hiện theo ước nguyện.
Hoàng Hạc biết đây cũng là một việc bất đắc dĩ, khó chối từ tâu :
― Muôn tâu Hoàng Thượng điện hạ đã sủng thần thì tùng mệnh, đây cũng là bất đắc dĩ nay hạ thần xin tiếp chỉ. Hoàng Hạc tâu tiếp: – Muôn tâu Bệ hạ, hạ thần mạo muội xin Hoàng Thượng duyệt thẩm lục sách và chuẩn y, trước triều thần mới tránh khỏi chểnh mảng thi hành lục sách, toàn thể Lạc dân cũng cảm khái được Vua-tôi trên dưới một lòng xây dựng Nam Việt, một khi Quân thần đồng tâm thì tránh được sâu dân mọt nước, tham ô, lạm quyền.
Nam Việt Vũ Đế hài lòng ban chỉ:
― Quả nhân đồng ý với khanh, chọn nhân tài đức từ quan quân liêm khiết, tâm huyết vì dân. Quả nhân thấy những quan quân ấy phần đông đã từng tham dự cuộc chiến biên giới, họ sẽ thi hành chỉ dụ như ý của hiền khanh, còn ý của quả nhân việc trước mắt là xây dựng Giang Nam như đất Phong Châu, Nhật Nam, Cửu Chân.
Hoàng Hạc vui mừng Vũ Đế đã cảm nhận được tầm quan trọng đất Giang Nam, rồi cẩn tâu :
― Muôn tâu Hoàng thượng bệ hạ, quân thần thiên ý hợp nhất, từ nay Nam Việt khởi đầu đời sống mới, tam nhật hạ thần sẽ xuất thương thuyền, khởi đầu hành trình đi Trung nguyên mua tơ tầm giống, ngũ cốc, gia súc cho việc nông, ngư, lâm nghiệp đúng hai tháng là hoàn hảo trở về Nam.
Nam Việt Vũ Đế và Hoàng Hạc từ giã chúc nhau :
― Chúc hiền khanh mã đáo thành công, hy vọng Nam Việt một cõi sống thịnh vượng, thanh bình, toàn Lạc dân hưởng vĩnh phúc.
Trong tâm ý của Hoàng Hạc cũng có những đề phòng bất trắc khi xây dựng đất nuớc, nếu không may kho tàng gặp phải kẻ gian, nên ông cẩn thận tấu lên Nam Việt Vũ Đế, xuất kim ngân ở kho tàng rất bí mật, để cho việc khởi đầu được thành công.
Hoàng Hạc tiếp chỉ triều đình chọn Cần Lĩnh Nam ba nơi Bắc, Trung, Nam làm thân tín, cùng ba thế lực triều đình Ngự Lâm Quân, Hộ Thành, Cơ Mật Viện.
Sau khi Nam Việt Vũ Đế nghe Hoàng Hạc cẩn tấu bát sách trong lòng vui như có một bầu trời mới trên đầu.
Hoàng Hạc về Cửu Chân gặp lại Hoàng Phi Bằng, ông cho Hoàng Phi Bằng biết Nam Việt Vũ Đế đã xuất chỉ dụ thuận xây dựng đất nước theo ý của Hoàng Phi Bằng. Hoàng Hạc phấn chấn nói :
― Phi Bằng điệt nhi cùng nội tổ đi xem phong thủy Phong Châu.
Hoàng Phi Bằng hiểu ý :
― Dạ nội tổ, mời nội tổ lên đại hạc, bốn con hạc đưa hai ông cháu về động Lạc Việt để xuất kim ngân. Hoàng Hạc đề nghị Hoàng Phi Bằng bảo mật kho tàng :
― Phi Bằng nhi xem lại kho tàng này có được an toàn chưa ?
Hoàng Phi Bằng bình thản thưa :
― Nội tổ an tâm điệt nhi đã bế hết những cửa ra vào động, một cửa dưới đáy động, một cửa lên đỉnh núi, ba trạm phục binh của đại hạc, khó ai vào được kho tàng.
Hoàng Hạc vẫn chưa an tâm hỏi tiếp :
― Cửa trên vách đỉnh đá nếu Phi Bằng nhi vào được thì cũng có người khác vào được, điệt nhi nghĩ thế nào ?
― Thưa nội tổ, đúng như nội tổ dạy bảo, Phi Bằng nhi đã lập đồ trận thì khó ai mà vào được.
Hoàng Hạc vốn tính cẩn trọng, muốn an lòng hơn nói :
― Phi Bằng nhi cẩn thận như vậy mới phải chứ, nhưng mà cửa lên đỉnh núi phải tấn thêm một tảng đá thật lớn, còn bốn tảng đá phổ trên đỉnh núi phải chuyển mặt có chữ vào trong và dùng bốn tảng đá lớn tấn phía ngoài.
― Thưa nội tổ, về đến động hài nhi sẽ làm theo ý của nội tổ dạy bảo.
Chiều hôm sau ông cháu về đến động Lạc Việt, bốn con hạc vào động trước để báo chủ động đã về, trong động vẫn như mọi ngày. Thời gian qua Hoàng Phi Bằng đã luyện tập thành công thuật ngữ riêng cho bầy hạc. Trên không trung Hoàng Phi Bằng rời lưng hạc ôm lấy thân Hoàng Hạc phi thân lên vách đá đứng cheo leo vào cửa động Đông. Lần này Hoàng Hạc không còn sợ như trước, trái lại ông cảm thấy thoải mái, chân của Hoàng Phi Bằng vừa chấm xuống phiến đá một tấc trước cửa động là phải phi thân liền để vào cửa phía trong động.
Hoàng Phi Bằng dụng thủ pháp phi thân thần tốc, như đại bàng vồ lấy con gà mái dầu và hạ cánh an toàn. Hoàng Hạc vào trong động khen thầm:– Quả là cháu út của mỗ phi thường.
Tối hôm đó ông cháu họ Hoàng lên đỉnh núi vào kho tàng xuất kim ngân, đem xuống sảnh đường phân thành sáu bao đay nhỏ để cho sáu đại hạc chuyển về Cửu Chân. Trong ngày Hoàng Hạc về đến Cửu Chân liền xuống thương thuyền đi Trung nguyên.
Sáu đại hạc về lại động, có mang theo một phong thư của Hoàng Hạc nhắc nhở: – Phi Bằng nhi ở lại động hai tháng, nội tổ sẽ cho hạc đưa tin, khi ấy Phi Bằng nhi mới về Cửu Chân. Hoàng Phi Bằng vâng lời, thời gian này mỗi buổi sáng chàng chăm sóc bầy hạc, tưới nước vườn cây ăn trái, trồng cây thuốc hướng dẫn bầy hạc tự trị liệu, chàng bắt thú rừng làm lương khô dự trữ cho hạc. Buổi trưa chàng luyện võ học trên đỉnh núi, chiều vào kho tàng đọc lại kinh thư, binh pháp, tối luyện nội công. Chàng đắc ý nhất là kho tàng, ngũ phổ võ học và bầy hạc.
Thời gian trôi qua mau, hạc đưa tin nội tổ đã về Cửu Chân, nhân dịp này chàng chuyển về cho Hoàng Hạc năm bao đay kim ngân.

Năm mươi lăm thương thuyền của Quốc sư Hoàng Hạc trở về Bách Việt, bốn mươi thuyền cập bến Hổ Môn, mười lăm thuyền cập bến Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, phân phối đợt đầu đến tận tay người dân, toàn Lạc dân Nam Việt hoan hô, reo hò vui mừng, tung hô Nam Việt trường cửu thanh bình, Vũ Đế "Vạn tuế, Vạn tuế".
Hoàng Hạc nhận được năm bao kim ngân của Hoàng Phi Bằng vừa chuyển về, ba hôm sau ông cho thương thuyền xuất bến đi Trung nguyên mua tiếp ngũ cốc, gia súc, kim loại.
Chỉ một tháng Nam Việt phất cờ phát triển ngoài dự liệu. Hoàng triều khám phá tôn tộc Bách Việt có tổng tịch Bách Việt như :
– Lạc Việt, chín trăm năm mươi ngàn.
– Âu Việt,  bảy trăm năm mươi lăm ngàn.
– Điền Việt, một trăm ba mươi lăm ngàn.
– Dương Việt, một trăm ngàn.
– Mân Việt, chín mươi tám ngàn.
– Đông Việt, tám mươi ngàn.
– Ngô Việt, hai trăm năm mươi bốn ngàn.
– Môn-Khmer, năm mươi bốn ngàn.
– Mườn-Việt, bảy mươi ba ngàn.
– Thái Việt, năm mươi ngàn.
– Mèo-Dao, bảy mươi ngàn.
– U Việt, bốn trăm năm mươi ngàn.
– Âu-Lạc, bảy trăm ngàn.
– Miêu tộc, chín mươi ngàn.
– Miêu-Yao, tám mươi ngàn.
– Hẹ, hai trăm ngàn.
– Đa đảo, một trăm ngàn.
Ngoài ra triều đình còn trợ cấp Lạc dân đang sinh sống tại các tỉnh Trung Nguyên gồm có Lạc Việt (Giang Tô, Sơn Đông) Mân Việt (Phúc Kiến) U Việt (Chiết Giang) Âu Việt, Thái Việt (Hà Giang) Ngô Việt, U Việt, Mân Việt (Tứ Xuyên, Trùng Khanh, Thiên Tân) Điền Việt, Môn-Khmer (Hồ Bắc) Dương Việt (Giang Tây) Ngô Việt (Thiểm Tây) Mườn-Việt, Mèo-Dao (Triết Giang, Hà Nam) U Việt, Âu-Lạc, Miêu Việt (Bành Lãi hồ) Yao, Hẹ Việt (Trùng Khánh, Tứ Xuyên, Quế Châu)
Hoàng Hạc đi Trung nguyên lần thứ hai, ủy nhiệm Hoàng Phi Biên thay mặt ông triệu tập huynh đệ muội và con cháu để bàn kết quả kế sách cải thiện nhân sinh trong những tháng qua.
Hoàng Phi Biên, Hoàng Phi Bình, Hoàng Phi Vũ, Hoàng Lữ Giao, Hoàng Lữ Trinh, Hoàng Phi Chỉnh và trên ba mươi con cháu họ Hoàng đồng tham dự.
Hoàng Phi Biên tuyên bố :
― Những việc làm lâu nay của gia gia hướng về thịnh vượng Bách Việt, họ nhà ta đồng ý cộng lực vào việc xây dựng cường thịnh Nam Việt. Đến nay việc làm phó bản hai bộ Thư pháp, Binh pháp đã được trên hai mươi bộ, đã chuyển đi phân phối các nơi, riêng hai bộ phó bản "Tuyệt Cao Kỳ Kiếm" và "Phong Tâm Kiếm" họ Hoàng nhà ta vừa tiếp nhận được do Cần Lĩnh Nam Giang Bắc gửi tặng, họ cho biết làm được sáu mươi bộ phó bản. Nguyên hai bộ "Tuyệt Cao Kỳ Kiếm" và "Phong Tâm Kiếm" có phần bổ túc chỉ được lưu truyền trong hạn định. Lý do hai bộ này đích thân Hoàng Phi Bằng tìm ra, sau đó được bổ túc thêm trọn phần võ học của họ Hoàng.
Hoàng Phi Bằng còn cho biết huynh đệ Cần Lĩnh Nam cũng được truyền thụ phần bổ túc võ học họ Hoàng. Phần quan trọng nữa là ngũ phổ võ học của sư phụ Hoàng Phi Bằng chưa truyền toàn bộ cho các đệ tử, lý do chưa khám phá nhân kiệt nào có khả năng tiếp thu được ngũ phổ bích Lĩnh Nam, Hoàng Phi Bằng dự trù hướng dẫn cho quí thúc phụ, quí cô mẫu, quí huynh đệ con cháu họ Hoàng nếu có đủ tư chất.
Nói chung con cháu nào cũng được truyền thụ, ông công bố tiếp:– Sáu tháng nữa họ Hoàng có tổ chức tỷ đấu để phân cấp võ nghiệp.
Về binh khí do Hoàng Phi Bằng đem về nhà để đúc lại theo mẫu, đến nay đã làm được trên hai ngàn binh khí các loại khác nhau, phương pháp đúc võ khí nay đã phân phối khắp nơi, để họ tự lập lò đúc, rèn lấy binh khí, tạo ra phong trào tự phát triển, trao đổi kinh nghiệm kiến thức về binh khí.
Những binh khí nguyên mẫu như Đại hổ đao, Phương trường thương, Mảnh trầm kiếm, Thu trượng, Hùng cửu côn, Phán quan bút, Phi tiêu, Chùy, dụng cụ phóng ám khí, Thanh long đao, Bạch cương mâu, Long thái kiếm, tất cả mười tám loại binh khí bảo vật có kèm theo phổ từng binh khí, đã thực hiện đúc theo mẫu binh khí. Sau khi hoàn tất thì Hoàng Phi Bằng đưa những binh khí ấy về trao lại cho sư phụ, tuy vậy trong họ Hoàng ai là người sử dụng được những binh khí bảo vật này thì Hoàng Phi Bằng xin sư phụ ban ân, nhưng phải một lòng thề nguyền bảo vật chỉ vì Bách Việt, quí thúc thúc vẫn sử dụng kiếm gia bảo họ Hoàng, thúc phụ Hoàng Phi Bình, Hoàng Phi Vũ, Hoàng Phi Khảo, Hoàng Phi Biên, cô mẫu Hoàng Lữ Giao, Hoàng Lữ Trinh. Từ nay về sau tất tất dưới sự điều động công việc chỉ bảo của gia gia Hoàng Hạc.
Riêng Hoàng Phi Bằng nguyên chủ quản Cần Lĩnh Nam Tam Giang không còn lo việc nội ngoại họ Hoàng, tuy nhiên việc gì trong họ Hoàng cần là có mặt phải về tham gia, những con cháu hiện diện hôm nay tùy theo sở nguyện tham gia vào những sinh hoạt của họ Hoàng hay tham gia vào Cần Lĩnh Nam tùy ý.

Đại hội Cần Lĩnh Nam tại thành Phiên Ngung, cũng là nhân dịp lễ tưởng niệm huynh đệ Cần Lĩnh Nam đã hy sinh trong trận chiến cương giới Bắc Đông Việt–Hán.
Đại diện Giang Bắc tổng lý Phùng Hưng trình báo thàng quả hoạt động năm vừa qua :
― Kính thưa Hoàng chủ quản, hiệm nay nhân sự Giang Bắc cấp điều hành cao nhất có mười tám vị, cấp thượng có mười chín vị, cấp trung có một trăm mười hai vị, cấp hạ có ba trăm bốn mươi tám vị, cấp chúng đường thủy có sáu trăm mười ba vị, cấp chúng đường bộ có trên ngàn vị.
Đại diện Giang Nam tổng lý Hoàng Phi Biên hiệu "Long Thanh" trình bày :
― Thưa quí anh hùng, Giang Nam cấp điều hành có bảy vị, cấp thượng có mười hai vị, cấp trung có mười tám vị, cấp hạ có một trăm tám vị, cấp chúng đường thủy có sáu trăm ba mươi ba vị, cấp chúng đường bộ có bảy trăm mười vị.
Đại diện Giang Trung tổng lý Vũ Thư Minh trình bày :
― Thưa quí anh hùng, Giang Trung cấp điều hành có bảy vị, cấp thượng có tám mươi bốn vị, cấp trung có trăm mười hai vị, cấp hạ có hai trăm vị, cấp chúng đường thủy một ngàn bảy trăm vị, cấp đường bộ có hai ngàn chín tram vị.
Tài sản Cần Lĩnh Nam Tam Giang tự trị, sinh hoạt, liên lạc giữa Tam Giang như con thoi, nhờ liên kết đường thủy có ghe thuyền, trên bộ có tuấn mã.
Hoàng Phi Bằng tiếp nhận trình báo của Tam Giang, thấu hiểu sinh hoạt của mỗi Giang khác nhau về địa lý cũng như tổ chức tự trị nội bộ và tùy thuộc vào trình độ kiến thức của mưu sĩ cũng như tinh thần trách nhiệm, tuy Tam Giang đồng nhất trên căn bản tổ chức Cần Lĩnh Nam, nhưng võ nghiệp cao thấp khác nhau là do hoàn cảnh sống và tư chất tạo thành, chàng nói :
― Hiện nay Cần Lĩnh Nam hoạt động trên ba khu vực phía Bắc có Cô trượng Phùng Hưng gọi là Giang Bắc. Thúc thúc Vũ Thư Minh hoạt động miền Trung Nam Việt gọi là Giang Trung. Thúc bá Hoàng Phi Biên hoạt động Giang Nam. Về mặt tổ chức, điều hành, phát triển của Tam Giang rất phù hợp nhu cầu từng vùng, nhưng tất cả đồng thủ tín trao đổi võ học, hội ý kinh nghiệm giao dịch, đời sống Cần Lĩnh Nam theo tinh thần thủ túc.
Ngày nay Nam Việt Vũ Đế công nhận Cần Lĩnh Nam là lực lượng Hộ thành thứ hai, ngoài ra còn có khả năng bảo vệ Nam Việt cho nên tất cả Cần Lĩnh Nam phải luyện tập binh mã, có như vậy mới gánh vác trách nhiệm sự tồn vong của Nam Việt.
Theo tại hạ thấy, tổng kết hiện nay phía Cần Lĩnh Nam Giang Nam thực lực còn yếu, đối với tình hình chủ lực xây dựng Nam Việt cần phải phát động chiêu hiền đãi sĩ để có một lực lượng tương đồng Cần Lĩnh Nam Giang Bác và Giang Trung.
Hoàng Phi Bằng dừng lại suy nghĩ về kho tàng. Cần xuất ra cung cấp phương tiện cho Giang Nam. Chàng nói tiếp:– Về phương tiện hoạt động của Cần Lĩnh Nam Tam Giang, tại hạ thấy duy có Giang Nam còn yếu mọi mặt, điều này tại hạ nhận trách nhiệm cung cấp phương tiện vật chất, còn về đào tạo nhân lực các cấp thì Cần Lĩnh Nam Giang Nam tự phát huy, ở buổi đầu này có nhiều vất vả, nhưng trong tương lai phải là một lực lượng bảo vệ mặt Nam Nam Việt. Tại hạ xin mời quí thúc bá, thúc thúc, cô trượng, huynh đệ có ý kiến gì thêm không ?
Phùng Hưng đứng lên phát biểu :
― Thưa chủ quản (Hoàng Phi Bằng) trong thời gian này thập bác anh hùng phía Giang Bắc chia làm hai, bổ túc cho Giang Nam.
Hoàng Phi Bằng suy nghĩ một hồi, mới đáp :
― Cô trượng đưa ra đề nghị này cũng hợp lý, nhưng Giang Nam còn nhiều thời gian chiêu hiền đãi sĩ, chưa cần thiết bổ túc, làm như vậy sẽ bị đình trệ một phần tổ chức của Giang Bắc.
Hiện nay Quốc sư (Hoàng Hạc) ở Trung Nguyên đang trên đường về nước, hy vọng sẽ có cuộc hội ý khác để phát triển Giang Nam.
Tại hạ có điều quan trọng muốn nhắc nhở, ngày tháng như mắc cửi, hàng hàng, lớp lớp người đời thấm thoát trôi qua, tìm được người nhân tánh xuất chúng khó lắm ! Từ đây Cần Lĩnh Nam chú ý khai trừ và không kết nạp người nhân tánh tham lam, trong tâm của họ chứa tứ độc tính, như Tiền, tình, quyền, danh lợi, những kẻ này thắng làm vua, thua làm giặc. Tại hạ xưa nay xem thường tứ thứ vinh thân và những kẻ tham sống sợ chết, anh hùng thời nay ngoài văn võ song toàn còn phải định nghĩa kiếp sống đạo lý làm người hữu ích cho xã tắc.
Tiếng vỗ tay vang cả sảnh đường.
Hoàng Phi Bằng nói tiếp:– Tại hạ xin tạm biệt quí thúc bá, thúc thúc, cô trượng cùng toàn thể quí huynh đệ, chúc đại hội Cần Lĩnh Nam viên thành như ý, chúc sức khỏe, bình an, tạm biệt .
Tiếng vỗ tay vang cả sảnh đường huynh đệ Cần Lĩnh Nam tiển Hoàng Phi Bằng ra về. Không bao lâu Cần Lĩnh Nam Giang Nam hoạt động phát triển mạnh, có những đột phá mới, anh hùng phía Nam gia nhập Cần Lĩnh Nam, nhờ có con cháu ngũ họ, như Lê Đằng đầu họ, Đào Tứ Cường, Tô Thành, Bàng Lân, Trần Tam Điệp. Thành lập được cấp điều hành gồm có Hoàng Phi Biên, Hoàng Phi Chỉnh, Lê Đằng, Đào Tứ Cường, Tô Thành, Bàng Lân, Trần Tam Điệp, Lê Cù, Đào Tứ Bảo, Tô Không, Bàng Chí, nữ hiệp Trần Thủy Hoa.
Cấp thượng có đến năm mươi bảy vị, cấp trung có tám mươi ba vị, cấp hạ có một trăm sáu mươi vị, cấp chúng đường thủy trên ba ngàn vị, đường bộ trên sáu ngàn. Trang trại đường thủy rải khắp sông ngòi có hai trăm chín mươi bốn trại, mặt biển Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam có bảy mươi trại và hai mươi chiến thuyền.
Hoàng Phi Bằng xuất kho tàng hổ trợ Giang Nam lập trang trại trên bộ và đường thủy, xem đây là thành lũy sống còn phía Nam Nam Việt, cũng là nơi tổ chức tập hợp Cần Lĩnh Nam sau này.
Địa lý rất quan trọng, núi rừng, sông ngòi mượn sông Kỳ Cùng (nước chảy ngược) làm thủy lộ trong nội địa, hợp lưu sông Ba Thín bắt nguốn từ vùng núi cao thuộc Quế Lâm đổ vào bờ phải sông Kỳ Cùng thành hợp lưu với sông Tây-giang, sông Bằng-giang chảy qua Tượng Quận đến Quế Lâm. Sông Lô chảy ra vịnh Nhật Lệ thuộc Giao Chỉ, địa danh này đặt bốn trại Cần Lĩnh Nam Giang Nam. Sông Lam chảy vào hợp lưu sông Gianh đồng chảy ra cửa vịnh Giang, địa danh này đặt bảy trại Cần Lĩnh Nam. Sông Lương đặt năm trại, sông Mã đặt mười hai trại, sông Lô đặt mười chín trại, sông Nồng Hồ đặt bảy trại, sông Chảy tại đây đặt mười ba trại, sông Lũ đặt sáu trại, sông Bạch Đằng thành một hợp lưu ra cửa Biển Đông tại đây đặt hai mươi trại.
Đặc biệt địa thế sông ngòi của (Lục đầu giang) gồm có sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Thầy, sông Lục chảy ra vịnh Nam Giao Chỉ, địa danh trọng yếu này Cần Lĩnh Nam Giang Nam đặt trên bốn mươi trại, sông Kinh Môn chảy ra biển cửa Cấm đặt mười trại, sông Văn Út ra cửa biển Lạch Trai đặt chín trại, sông Rạng chảy ra cửa biển Văn Úc đặt tám trại, sông Đá Bạch (Bạch Đằng giang) hợp lưu với sông Kinh Môn nguyên là cửa sông vùng lầy rộng lớn gọi là cửa biển Nam Triệu đặt mười một trại.
Ngoài ra còn các sông nhánh khác như sông Lai Vu đặt ba trại, sông Thủy Nguyên đặt tám trại, sông Đa Độ, sông Tam Bạc đặt sáu trại. Đoạn đầu nguồn Lễ Xã Giang từ dãy Ngụy Sơn vào hợp lưu sông Nguyên Giang đến từ Lào vào hợp lưu sông Thao (sông Hồng) chảy ra cửa biển Ba Lạt nơi này đặt mười sáu trại.
Từ biên giới tỉnh Tượng Quận, Quế Lâm có các con sông như sông Đà, Nậm Na, Lô, Nho Quế, Mễ  Phúc, Nam Khê chảy vào Giao Chỉ cũng được đặt trên bốn mươi trại, còn có những phụ lưu khác như sông Đà, Lô nối vào phụ lưu sông Gầm, sông Hồng chia ra hai nguồn tả ngạn là sông Đuống, sông Lục nối vào Lạch Giang, sông Phủ Lý. Sông Na Pa (Chi Lăng) chảy trong máng trũng hồ Mai Sao cũng đặt sáu mươi trại.
Vùng cửa biển miền Giao Chỉ phong phú như cửa biển Nam Hải, Long Biên, Ba Lạt, Nam Triệu, Văn Úc, Cửa Cấm, Biển Đông, Nhật Lệ, Cửu Chân, Nhật Nam, Cửa Tùng được xem là huyết mạch phát triển Cần Lĩnh Nam Giang Nam.
Hoàng Phi Bằng trong tay đã có kho tàng cộng vào trí lự thiên phú, chàng thiếu niên rộng tay tận dụng hết thiên nhiên sông núi biển cả, mở ra mạch máu lưu thông chân trời Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam như một thân thể miền Nam Nam Việt đầy đủ tứ chi của quê hương xứ sở. Bảo vệ được mạch máu chảy cuộn khúc vào bầu nhiệt huyết, sông núi đất cùng người hợp nhất.
Chàng thiếu niên háo hức quyết định táo bạo không chờ thời cơ hứa hẹn. Huynh, tỷ, đệ Hoàng Phi Bằng nhất là Hoàng Lữ Thư nay trở thành nữ hiệp kiệt tài thủy chiến và binh bộ.
Cần Lĩnh Nam Giang Nam xem đây là một phép lạ, vùng lên bước vào hoạt động khắp miền Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Sức mạnh này có được là nhờ Hoàng Phi Bằng âm thầm trợ lực, cộng với bầu nhiệt huyết của những anh hùng Giang Nam, những gì thành công được thường nhờ vào tuổi thanh xuân suy tư và bộc phát hành động đúng thời cơ.
Với một phong trào Lạc dân mới của Giang Nam đã thực sự lớn mạnh, tổng cộng ghe thuyền trên sông có sáu trăm, trên biển có tám mươi ba thuyền bầu, tất cả thiết kế theo mẫu hai đáy.
Từ lúc Hoàng Hạc có kho tàng trong tay thực hiện được mười sáu chuyến đi Trung Nguyên, mỗi chuyến đi năm mươi sáu thuyền bầu cập bến khắp cửa biển Trung Nguyên, chuyến đi nào cũng kết thúc thành công, việc làm của Hoàng Hạc dâng hiến vì ước mơ đất nước phồn thịnh, ông tạo ra thời kỳ nhân giống, thế hệ trẻ ngày nay khẩn định tôn tộc Bách Việt phải hào hùng.

Hoàng Hạc mua nguyên liệu, sản phẩm chuyển về nước, phân phối cho toàn Lạc dân từ thành Phiên Ngung cho đến tận Giang Bắc xuống Giang Nam. Chính Nam Việt Vũ Đế cũng phải khen: "– Tôn tộc Bách Việt được ân sủng thượng thiên hậu thiên, nay Lạc dân nắm bắt được cơ hội thì sợ gì lòng thịnh vượng không thành. Người quân binh giữ bề cõi an ninh thái bình, người mưu sĩ tạo phú cường muôn dân an lạc".
Ngày nay toàn Lạc dân phấn chấn đứng trước thành Phiên Ngung, với tiếng hò reo "Nam Việt Vũ Đế vạn tuế, vạn tuế" "Tôn tộc Bách Việt muôn năm".
Cũng như trước phủ Phó Nam Việt Vương Phùng Nam, Lạc dân Giao Chỉ tụ hội ăn mừng họ reo hò, tung hô "Bách Việt thanh bình trường cửu" "Nam Việt muôn nam" "Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế" "Nam Việt Vương muôn năm".
Những ngày hội kỳ phong hóa Việt xem như một cung quản về đêm rất huy hoàng tại Giang Nam, đẹp nhất là ngày hội Hùng Vương và ngày vinh danh anh hùng tộc Bách Việt. Người Hán cũng phải ghen ghét thầm và tự hỏi phép lạ nào để hổ rồng Nam Việt vùng dậy một phương trời ?
Vì ghen ghét thầm ấy mà Hoàng đế nhà Hán Lữ Trí (Hoàng hậu Lưu Bang, Hán Cao Hậu) xuất chỉ cấm toàn dân Trung Nguyên bán súc vật giống cái cho Nam Việt. Lữ Trí xuất chỉ sau một năm thì đã muộn màn vì Nam Việt đã dự trữ và dư thừa nhu cầu.
Hoàng Hạc còn truyên bố súc vật giống cái, giá một mua mười, bởi vậy dù có ngàn chiếu chỉ của Lữ Trí cũng vô dụng thôi, ông mượn lời để mỉa mai Lữ Trí: "– Lữ Trí hữu danh Hậu Trí".
Hoàng Hạc đã biết trước cho nên mua tất cả súc vật giống cái khỏe, còn giống đực thì chọn lọc khỏe tốt nhưng mua rất ít. Hán Hậu Lữ Trí vội vã xuất chỉ lần thứ hai cấm toàn dân Hán bán ngũ kim như vàng, bạc, thép, đồng, chì, thau, kẽm cho Nam Việt. Những chiếu chỉ của Lữ Trí không còn giá trị nữa, bởi ngũ kim mà Nam Việt đã mua lâu nay và lưu trữ bí mật từ Bắc xuống Nam.
Thời gian này tứ phương, mười hướng các nước lân bang, đem ngũ kim vào Nam Việt trao đổi sản phẩm, Nam Việt mở rộng cánh cửa giao thương đất nước phồn thịnh, tự nó tạo ra sức hút của ngũ kim đổ vào. Có lần Vũ Đế ban chỉ dụ: "– Phép màu phồn thịnh do trí tuệ và sức sống của Lạc dân tạo ra". Bát sách cải thiện nhân sinh là do toàn lực Lạc dân Nam Việt tạo thành, đời sống thịnh vượng nhờ biết vận dụng phép nông, lâm, ngư nghiệp, kinh doanh v.v… đó là thành quả của sức người.

Toàn Lạc dân nay dư ăn dư để, không còn chạy vạy lo sáng ăn chiều, chạy chiều thiếu tối. Ngày no ba buổi không còn lo âu đời sống thiếu thốn, nơi nào Lạc dân cũng lập kỳ hội mùa để tạ ơn thần Nông, cha trời, mẹ đất và đa tạ Vũ Đế. Ba năm liên tiếp trúng mùa nhờ gieo, trồng, nuôi giống đúng thời vụ, khí hậu cây nào mùa ấy, kho lẫm dự trữ lương thực ụ đống cao to đụng mái nhà, sản phẩm ngư nghiệp, chăn nuôi, chế biến phơi khô làm mắm v.v... Nhiều sản phẩm mới cũng được bày bán và trao đổi khắp nơi.
Nam Việt Vũ Đế hạ chỉ quân quan địa phương mua sản phẩm của Lạc dân với giá cao, giao trách nhiệm cho Ngự Lâm Quân, Hộ Thành, Cần Lĩnh Nam giã dạng dân mua bán sản phẩm để giám sát giá cả thị trường.
Cơ Mật Viện giám sát quan lại địa phương. Tất cả sản phẩm do Cần Lĩnh Nam vận chuyển qua đường sông, lấy cửa biển làm điểm hẹn của kho chứa, xuất cảng sản phẩm, sinh hoạt tại các trại giao dịch lưu chuyển ở cửa biển tấp nập ngày cũng như đêm.
Những đoàn thương thuyền của Phiên Ngung, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Kim Biên, Nam Hải thi nhau buôn bán sản phẩm ngũ cốc, gia súc, quí kim, vải lụa với các nước lân bang.
Lúc này thương truyền lân bang đến Nam Việt bán những sản phẩm như thép, gỗ, châu báu, kim ngân, có cả tuấn mã từ phía Bắc Trung Nguyên. Lạc dân bán ra những sản phẩm lương thực, gia súc, mua vào những quý kim, châu báu, vật dụng gia đình v.v... cung cầu của Lạc dân tăng trữ cao. Nam Việt trổi dậy những đô thị kinh tế sầm uất, các nước lân bang gọi Nam Việt là thị trường Bách Việt của Đông Nam.
Những năm sau này ở Trung Nguyên có đại dịch đồng khô cỏ cháy, mùa màng mất trắng liên tiếp hai năm, cảnh vật điêu tàn thê lương, nhiều tỉnh thành nhà vắng vô chủ, người vật biến mất để lại cảnh hoang sơ, người Hán chết đói vô số kể, tạo ra nhiều đảng cướp, trái lại cũng có thiểu số không hề biết sự lầm than của dân, còn tệ hại hơn tại Trường An nhà Hán cổ xúy những quân đoàn thu thuế còn giữ hơn hổ, quan trường tham ô hơn bầy chó sói. Càng tham ô thì kiện tụng càng nhiều, đó là trường sinh sát của quan kiện tụng, như kiến thấy mỡ.
Cao Hậu Lữ Trí hạ chỉ sai sứ thần đến Nam Việt cầu kiến xin Vũ Đế cấp lương thực. Nam Việt Vũ Đế chấp thuận tặng người Hán lần thứ nhất trên ba mươi vạn đấu ngũ cốc (mỗi đấu nghìn hộc lúa) lần thứ nhì trên hai mươi vạn đấu ngũ cốc. Hán Cao Hậu Lữ Trí một lần nữa sai sứ thần đến Nam Việt xin trợ cấp hạt giống ngũ cốc. Nam Việt Vũ Đế chấp thuận tặng trên mười vạn đấu ngũ cốc và ba muôn giống gia súc.
Nam Việt thịnh vượng tệ đoan xã hội cũng biến mất, những việc làm nào cũng thành công, giải quyết được tất cả mà ngày xưa cho là khó. Việc nông, lâm, ngư nghiệp, thương trường chính là chìa khóa để lân bang học người Nam Việt. Đã thành công thì những việc khác cũng kéo đến tấp nập, như sách có câu "Nhà đền chủ tốt khách tới thường" .
Những việc chưa hề nghĩ đến nay cũng vùng dậy như ở các cửa biển lập sở đóng ghe thuyền. Những đô thị thi nhau lập Đạo Đức Đường để đào tạo hiền tài, võ đường đào tại binh sĩ, lò đúc binh khí, vật dụng gia đình. Lần đầu tiên Nam Việt lập trường thi bắng cung tên, các loại bẩy, chế tạo ám khí như người phương Bắc thường dùng.
Tập Lạc dân phương thức trao đổi vần công, mua bán hàng hóa, lập kho lẫm dự trữ lương thảo, giao dịch trong nước bằng đường thủy, đường bộ từ Tượng Quận, Trường Sa, Quế Lâm, Nam Hải, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Ham đến Hải Nam.
Thủ công nghiệp cũng phát triển khắp nơi, xây dựng nhiều thành trì mới như Tượng Quận, Quế Lâm, Trường Sa, Nam Hải, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hải Nam, tu bổ thành Phiên Ngung, tu bổ thành trì Phong Châu, Cửu Chân, Nhật Nam, cùng lúc xây lũy đắp thành mới mục đích bảo vệ Nam Việt, phía Nam trên những trục lộ quan trọng, yếu huyệt như lũy sông Hồng, lũy sông Kỳ Cùng, lũy Ba Thín, lũy Dao, lũy Tây Giang, lũy Cổ Lâu, lũy Hoa Việt, lũy Ty Phù, lũy Kim Lặc, lũy Cổ Sậm, lũy Liễu Cát, lũy La Phù, ngoài ra còn xây thành Vĩnh An, thành Yên Quảng.
Ước nguyện của Vũ Đế cũng được thực hiện, xây vòng thành thứ ba cho Phiên Ngung, hào sâu, kiên cố. Nam Việt giao hảo các nước lân bang, như nhà Hán cùng các nước phía Nam, nhất là lập lại triều cống lân bang, theo lệ giao hảo thân thiện. Lúc này quan binh, quân trường hưởng bổng lộc triều đình nhiều hơn trước.
Thủ đô Phiên Ngung trung tâm kinh tế và văn hóa của Nam Việt, thành Phiên Ngung vốn đã đẹp nhờ địa lý thiên nhiên, nay cộng sự phồn thịnh trở thành quê hương của những loài hoa, cảnh vật nên thơ bốn mùa rực rỡ.
Phiên Ngung thành được người Hán phong mỹ danh đất thần kinh Giang Nam, có cửa biển Hổ Môn trung tâm kinh tế, thương mại lớn nhất Nam Việt, từ cửa Hổ Môn khách bộ hành chỉ mất hai canh là đến thành Phiên Ngung, đẹp nhất cảnh thiên nhiên hai bên lề đường, có cánh đồng hoa trải rộng như thảm chiếu hoa muôn màu, bốn mùa hoa trải dài từ biên giới tỉnh Quế Lâm đến Nam Hải. Hoa thơm dịu phơi phới, đưa khách si tình lạc lối mê mẩn vào cõi thiên thai, không một ai từ chối các loài hoa thành Phiên Ngung, vì nó là một tác phẩm bất hủ của tác giả thiên nhiên. Khách si đắm đuối theo hoa thưởng thức hết kỳ ảo bốn mùa, là đã tròn tuổi đời, mà vẫn còn luyến tiếc hoa đồng nội.
Đất Giao Chỉ cũng không kém sức vùng dậy, thi đua phục hồi cố đô Phong Châu, cố đô Loa Thành, văn hiến Hùng Vương trở thành nền tảng đạo học Nam Việt.
Phong Châu là trung tâm thứ hai về kinh tế, thương mại và thủ công nghiệp được Vũ Đế tặng mỹ danh Giang Nam Phù Đổng. Địa danh Giang Nam gồm có Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam miền đất mở rộng trù phú quan trọng thứ hai của Nam Việt.
Thành Phiên Ngung tiêu biểu của quốc gia Nam Việt, gọi là Giang Bắc gồm các tỉnh như Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận, Trường Sa và Hải Nam mỗi tỉnh được triều đình phong Vương trị chánh.
Giang Nam–Bắc thi đua phát triển trong ba năm đất nước Nam Việt trù phú như có phép lạ. Giang Nam xem là vùng đất mới phát triển, tuy đã có Phong Châu, Loa Thành, Cửu Chân, Nhật Nam nhưng dân cư lưa thưa không bằng Tượng Quận, Trường Sa, Quế Lâm, Hải Nam và Nam Hải.
Ngày nay Nam Việt thịnh vượng người dân xuống Giang Nam tìm đất sống mới, nhất là vùng đất rộng có nhiều hứa hẹn, khí hậu ôn hòa, thuận mùa sản xuất, sông ngoài nhiều, bờ biển thuận cho ngư nghiệp và thủy mạch cho thương thuyền.
Lạc dân Giang Bắc thi nhau dời cư xuống Giang Nam lập nghiệp, bỗng nhiên tự nó tập hợp được trăm họ tôn tộc Bách Việt, sản sinh trí sĩ, anh hùng hào kiệt. Giang Nam có được ngày nay cũng do lòng người biến hóa hữu thời.
Một tập hợp Bách Việt lần thứ hai mà chưa ai suy nghĩ đến, tự nó có từ lúc đại hội anh hùng Bách Việt tại thành Phiên Ngung. Một cấu tạo thiên nhiên đã định ngày hẹn trở về tộc Bách Việt, từ Trung Nguyên xuôi Nam hướng về quê hương xứ sở, họ mang theo những tinh hoa như kỹ thuật thuộc da, kinh doanh, thương mại, thủ công nghiệp, giao dịch, lưu hành ngân kim.
Họ là nhân tố bồi đắp vào đời sống văn hóa Giang Nam. Họ là những quyết định hưng thịnh cho Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Họ trở về trong lòng Bách Việt như một khối kết tinh tình tự dân tộc, quê hương xứ sở giàu mạnh không cần "Dụ ngôn nguồn cội".
Đất nước này có sự hiện hữu của họ là một động lực thi thố tinh thần tập hợp Bách Việt, cũng nhằm chuẩn bị đối đầu với người Hán trong tương lai. Các nước lân bang thường gọi "Thời đại Bách Việt Phương Nam".
Nhân tài thi nhau xuất hiện, văn nhân trí sĩ trẻ, võ hùng mã cường, nhị Giang Bắc–Nam cho phép họ được quyền quyết định vận mệnh đất nước, đời sống cá nhân làm chủ cuộc sống tự nhiên của con người.
Bách Việt thực hiện được mục chứng tinh thần tôn tộc "Dân vì Dân", với một lý trí mới không hề biết sợ người Hán vì "Thượng ứng thiên mệnh, hạ ứng nhơn tâm", do thiên hạ bá tánh mà có.
Vua trọng nhất mẫu đồng bào. Dân trọng hoàng thượng chí tôn thiên hạ. Nam Việt còn ngoại lệ cơ may xây dựng giang sơn cẩm tú và đem sự hoan hỷ đến cho Lạc dân, bằng ý chí quân thần, đúng như câu: "Khói củi sự sống của bá tánh, khói núi mở giang sơn vì thiên hạ".

Không ngờ Hoàng Hạc qui tiên, tin loan truyền một đêm mệt mỏi Người vĩnh viễn ra đi, hưởng thọ chín mươi chín canh, linh cữu quàn tại tư gia họ Hoàng thuộc tỉnh Cửu Chân, sau tam nhật chuyển về thành Phiên Ngung. Nam Việt Vũ Đế đứng ra làm chủ lễ an táng đại anh hùng Bách Việt. Mộ bia vinh danh, "Quốc sư chí minh Hoàng triều Nam Việt thất thập niên, hiền thần quốc hiếu, Hoàng Hạc vương thần lưu danh chi mộ".
Nam Việt Vũ Đế xuống chỉ thành Phiên Ngung và thành Giao Chỉ treo cờ rũ, triều đình cử hành tang lễ thất nhật. Quân quan từ Cửu phẩm đến bát phẩm phải chầu lễ cho đến khi an vị mới thành.
Hoàng Phi Vũ được tín nhiệm đứng đầu họ Hoàng tại Giao Chỉ. Cả họ cùng một lời thề trước linh đài Hoàng Hạc: "– Họ Hoàng nay tiếp nối hành trình tiên phụ để lại, một lòng vì sơn hà xã tắc Nam Việt. Quyết chí cả lập đức, lập công bồi đắp thanh bình hưng Nam Việt, phù trợ đất nước sinh tồn, nuôi dưỡng sinh lực nhằm phá tan những cản trở phát triển, bài trừ quan lại tham ô, hoạn quan suy nhược, triệt tiêu những cửa quan cậy quyền, áp chế Lạc dân, chấp nhận đứng trên mọi thử thách".
Từ ngày đất nước hết chiến tranh, Nam Việt thanh bình, hưng thịnh hơn năm năm, toàn dân lúc nào cũng vinh danh Vũ Đế "Vạn tuế, vạn tuế" còn quốc sư Hoàng Hạc người dân vinh danh "Anh hùng Bách Việt" Lạc dân thương tiếc, cùng lúc suy nghĩ về tương lai. Ai là đệ nhị Hoàng Hạc, Hoàng thượng Vũ Đế sẽ bổ nhiệm ai lo cho dân ấm no ?
Trong những ngày tang lễ Hoàng Phi Bằng khóc cho tiên tổ nhiều nhất, chàng khả nghi để ý tìm nguyên nhân tiên tổ qua đời.
Đôi lúc Hoàng Phi Bằng tự hỏi:– Người khoẻ mạnh khi chết da mặt phải tái, óp lại đôi chút ít, nhưng hiện thời tiên tổ như người đang ngủ, thi thể cũng như da mặt vẫn đầy đặn, hồng hào.
Nếu người có nhãn lực thâm hậu như Hoàng Phi Bằng mới khám phá trong thi thể có biến chứng không bình thường. Người của họ Hoàng cho đây là sự ra đi của Hoàng Hạc trong tư thế bình an ! Trái lại Hoàng Phi Bằng nhìn tiên tổ qui tiên với một gốc độ khác ! Chàng giỏi về mạch lý, y dược cho nên có ý tưởng khác người.
Hoàng Phi Bằng suy nghĩ thầm:– Chính nội tổ đã bị kẻ ám hại, bây giờ muốn cứu nội tổ cũng đã muộn màn. Chàng tiếp tục tự nhủ:– Giải pháp hay nhất là âm thầm tìm địch thủ, tuy họ trong bóng tối cũng có ngày lộ ra dưới ánh sáng mặt trời. Chàng tự hòi tiếp:– Họ dùng thủ pháp nào để hạ độc tiên tổ, những dược liệu gì ở trong thi thể, có lẽ thủ phạm không phải là người xa lạ. Dĩ nhiên đây là cao thủ không phải kẻ tầm thường .
Hoàng Phi Bằng quyết định khai quan nghiệm thi, lấy một mẩu thịt trên vai tiên tổ ngâm vào rượu nồng độ mạnh, rồi theo liên đài về thành Phiên Ngung. Ngày cũng như đêm Hoàng Phi Bằng nằm dưới liên đài theo tục lệ báo hiếu, nhờ vậy Hoàng Phi Bằng khám phá trong liên đài có nước vàng thấm qua khe liên đài gỗ Cẩm–lai. Chàng kết luận chính người trong nhà sát hại tiên tổ.
Ngự Lâm Quân canh gác trước cửa phòng, nhân tiện một lần nữa Hoàng Phi Bằng khai quan nghiệm thi, lấy mẫu nước vàng trong liên đài. Đôi tay chàng vận khí một thành công lực xuất chiêu thức "Cân vũ thành" liên đài bật nắp không vang tiếng động.
Chàng thấy thi thể của tiên tổ teo lại chỉ còn da bọc xương, thi thể đã bị rã rữa từ từ, nước màu vàng đã thấm hết vào vải bọc thi thể, rỉ ra ngoài phần nhỏ cho nên khó ai phát hiện.
Chàng nói thầm:– Mới mấy ngày thôi mà thân thể tiên tổ đã biến hóa nhanh như vậy rồi ư ? Nước mắt của chàng tủa ra như suối, chàng cẩn thận đậy nắp liên đài trở lại, cảm thấy bần thần, vội uống vào một viên "Hoàng liên thảo" ngồi xuống định thần, khi mở mắt ra mới biết chất độc trong liên đài cực mạnh. Chàng tự hiểu đây là một chất độc chế biến tinh vi.
Đến ngày tang sự viên mãn mọi người trở về sinh hoạt trong không gian đất nước thanh bình, chẳng ai suy nghĩ về một nhân vật kỳ tài bị chết bí ẩn.
Tin Hoàng Hạc qui tiên, Hán Cao Hậu Lữ Trí gửi sứ thần qua Nam Việt để phân ưu, đất nước Nam Việt buồn vì mất một kỳ tài, trái lại nhà Hán xem đây là một tin vui nhất, lý do đơn giản người Trung Nguyên thời nào cũng muốn áp phục tôn tộc Bách Việt, như nhà Tần nhị quốc Tây–Đông cũng bao lần áp chế, mục đích của họ là tiêu diệt tôn tộc Bách Việt, ý đồ ấy họ không đạt được bởi Bách Việt thời nào cũng sản sinh trí sĩ, anh hùng.
Thời nay người Hán đã đồng hóa được các dân tộc khác ở hướng Tây, Bắc, Đông Trung Nguyên. Bách Việt may mắn vượt ra khỏi tầm tay tham vọng của nhà Hán, người Hán cho rằng trên thế giang này chỉ có họ là dân tộc văn minh nhất, còn tất cả những dân tộc khác trong vùng Châu-á đều là man rợ.
Nhà Hán vẫn xem tôn tộc Bách Việt trong tầm mắt có vựa ngũ cốc trù phú, cho nên lòng khao khát thèm muốn của người Hán dâng cao, lúc nào họ cũng chuẩn bị đem binh lực để xâm chiếm Nam Việt, họ mãi mơ ngồi chờ thừa dịp là tràng quân vào cướp bóc tài sản cho bằng được, người Hán khác nào cái bồ tham vô tận từ xưa nay.
Tôn tộc Bách Việt hiểu thấu tính sài lang của người Hán, thực sự người Hán không phải là một dân tộc thông minh, nhưng họ lại giỏi gió tanh máu lạnh, lòng tham không bờ bến, họ là loài động vật có tính chuyên nghiệp cướp, chỉ biết đi thôn tính những nước lân bang, người Hán là con trăn ngủ dưới lớp lá khô chờ quốc gia nào suy vong thì tức khắc thừa cơ nhảy vào đồng hóa, vì lý lẽ tồn vong Nam Việt phải vũ trang binh hùng tướng mạnh, không thể hiếu hòa trước một con sài lang Hán đói, ăn thịch người không nhả xương. Sứ thần nhà Hán lần này đến Nam Việt thăm dò người kế tập Hoàng Hạc là ai, phân ưu chỉ là một cái cớ, trong đôi mắt nhà Hán đang lùng tìm miến mồi Nam Việt, cuối cùng sứ thần nhà Hán, họ Bàng tên Từ Không đi về tay không.

Cuối tháng chín miền Nam Giao Chỉ nắng mau trưa, mưa mau tối, chiều xẩm gió thổi mạnh "vù vù" nước sông chảy xiết, ghe thuyền làng Xá trên sông Hồng ngưng mọi sinh hoạt. Hoàng Phi Bằng cưỡi hạc đi qua, thấy từ xa xa trên dòng sông kéo theo một người trôi nổi bồng bềnh, đầu hụp lên, hụp xuống, cứ thế mà trôi tít mãi, xem ra người dưới nước đã kiệt sức, không còn ép được thân thể vào dòng nước để trôi vào bờ.
Hoàng Phi Bằng thấy cảnh tượng người này còn có thể cứu sống, chàng vội chuyển bộ pháp rời khỏi lưng đại hạc phi thân trên mặt nước xuất chiêu "Thủy sơn kiển", gọi là Khảm hiểm trở. Cấn dưới nước, trên thì có núi cao chặn đường tiến thủ, dưới chân vực sâu, đã dừng lại không tiến về phía trước. Nhờ vậy cứu được người lên bờ, đem nạn nhân vào gian nhà lá cũ bên bề sông, chàng búng vào nạn nhân một viên "Đơn bạch cúc" người thiếu niên tỉnh lại.
Tự dưng chàng nghe tiếng chân của một tốp độ tám người lạ mặt chạy phía sau gian nhà lá, trong số người này có một thiếu niên đang chạy phía trước, vừa đến trước cửa nhà nằm lăn ra thở phì phèo, thuận tay chàng búng luôn viên "Đơn bạch cúc", số người còn lại chàng xuất một quyền "Thảo Hưng Cấn" trong quyền Lĩnh Nam, kình lực nội công này khiến họ phải dừng chân lại trước cửa nhà.
Hoàng Phi Bằng lên tiếng có ý không cho họ vào trong nhà nói :
― Xin quí các hạ không được vào nhà, còn thiếu niên này tại hạ xin tiếp nhận.
Một trong tám người lạ mặt nói :
― Được không vào nhà thì ở ngoài, xem các hạ có thoát đi đâu chứ, nơi này là đường cùng của trần giang "ha hà... "
Thiếu niên lạ mặt tỉnh lại mở mắt ra, nói nhỏ :
― Tại hạ, xin đa tạ ân công cứu mạng.
Hoàng Phi Bằng không cần báo đáp ơn nghĩa, cũng không trả lời mà chỉ suy nghĩ về thiếu niên mới vớt từ dưới sông lên:– Muốn cứu sống thiếu niên này thì cần một viên "Thủy sa hầu", chàng búng liền vào trước ngực, từ trong bụng nạn nhân nước trào ra "ào ào", chàng nhặt lên một viên sỏi, búng xuống dưới đôi chân đang có tảng đá nặng hơn ba mươi cân, tức khắc tảng đá tan rã hơn trăm mảnh vụn. Thiếu niên được thoát nạn quỳ xuống đất, hai tay chấp lại xin một lạy tạ ơn ân công.
Hoàng Phi Bằng vội vã đỡ tay lên. Người thiếu niên ngơ ngác nói :
― Tại hạ xin đa tạ ân công cứu mạng sống, ơn này trời đất chứng lòng, tại hạ nguyện kết cỏ ngậm vành. Một tiếng thở dài rồi phân bua:– Tại hạ không biết có tội gì, đang ngủ trưa, bị sáu người bịt mặt ám hại trói mèo cả hai tay chân, dưới chân còn lại buộc thêm một tảng đá, rồi quăng xuống nước thử hỏi làm sao sống được. May thay còn trôi nổi được vài canh, nhờ dây gai gặp nước nở ra, hai tay mới tuột khỏi chân, nhưng còn tảng đá dưới chân vô tình cứ kéo thân thể xuống, sức lực đã cạn kiệt, vẫn phải nương theo dòng nước hụp lên, hụp xuống cố ngấc đầu lên tìm hy vọng sống trong hơi thở cuối cùng, nhưng không may nước lại chảy quá xiết, lúc này xem ra hoàn toàn thất vọng.
Người thiếu niên đang nằm trước cửa nhà cũng kể về thân phận của mình :
― Tại hạ, sinh ra từ bao giờ, không cha mẹ, quê quán cũng không, sống bằng hành khất độ nhật từ khi nào cũng không biết, khi đi về chòi tranh này thì bị bọn cướp chặng đường thế là cắm đầu mà chạy.
Hoàng Phi Bằng xem mạch biết thiếu niên này sức khỏe sung mãn, không vì đói khát, nếu căn cứ vào bào phục, cũng đủ chứng mình thiếu niên này là con nhà quan hay thương gia, với sức khỏe và da dẻ thân tròn trịa này đương nhiên còn thân nhân. Chàng quan sát rất kỷ thấy trong chòi trang tuy đơn sơ nhưng mà những vật dụng sinh hoạt rất gía trị, đối với một nông dân hay người hành khất, thì hẳn nhiên không phải là hành khất bình thường. Hoàng Phi Bằng đánh giá thiếu niên này có lòng gian trá. Tuy vậy chàng không ngại cứu người trên hết, tay chàng lấy bánh nướng mời thiếu niên ăn.
Còn về thiếu niên trôi trên dòng sông do người đời hãm hại, đang đứng nghiêm chỉnh, hai tay để trước ngực thi lễ nói :
― Thưa ân công, thân thế của tại hạ họ Đinh tên Anh Thi, mười bốn tuổi quê quán Phong Châu, nay xin theo hầu hạ ân công cho trọn kiếp sinh.
Hoàng Phi Bằng đưa tay ra phất nhẹ lời từ chối :
― Tại hạ sống không nơi ổn định, cũng không muốn nhận ân nghĩa, hôm nay tình cờ gặp các hạ ở đây, cũng hy vọng có ngày tái ngộ.
Đinh Anh Thi khẳng khái nói :
― Thưa ân công, nếu không được ý nguyện thì tại hạ quyết định thà chết tại đây, làm người mà không biết ân nghĩa thì nói chi chí khí nam nhi, sống như vậy có ích gì ?
Hoàng Phi Bằng thấy lòng người chân thực, cảm thông hoàn cảnh ôn tồn :
― Thôi được, tại hạ tạm nhận kết nghĩa với các hạ, như vậy được chứ ?
Đinh Anh Thi vui mừng nói :
― Tiểu đệ được kết nghĩa cùng ân công tuy rằng không hợp lễ, nhưng ít nhất trọn đạo tình người, xin đại huynh chọn ngày lành tháng tốt định phần cho tiểu đệ.
Hoàng Phi Bằng gật đầu tỏ lòng hoan hỷ tiếp nhận, chàng xưng danh tánh của mình :
― Tại hạ họ Hoàng tên Phi Bằng, đi qua đây gặp lúc cứu người hoạn nạn thì có gì đâu mà ân với nghĩa, nếu tại hạ không cứu thì cũng có người khác cứu, các hạ chưa phải là người vắn số, hôm nay huynh kết nghĩa với đệ cũng là khởi điểm thân thích sau này, hy vọng cùng nhau sống hết tình thủ túc, vậy huynh cùng đệ thi lễ nhá ?
― Dạ đại huynh ân công.
Thiếu niên nằm bên cửa nghe họ tên của Hoàng Phi Bằng vội vã lom khom đứng lên cũng giới thiệu danh tánh.
― Thưa nhị vị huynh đài, tại hạ tuy không họ nhưng có tên là Độ Thiếu, xin đồng kết nghĩa.
Hoàng Phi Bằng xem mạch Độ Thiếu đã hồ nghi, thấy gân cốt ít nhất có hai năm luyện võ học, thân thể béo khỏe không phải là kẻ hành khất, da thịt trắng trẻo không có một dấu vết nào chân tay lam lũ.
Chàng thở dài, suy nghĩ thầm: – Tuy đã phân biệt cả hai người bạn trẻ này khác hoàn cảnh. Đinh Anh Thi là thực của vô tình, còn một Độ Thiếu là cố ý giả. Chàng có ý riêng tiếp nhận bằng cử chỉ gật đầu, nhưng không bằng lời, cả hai thiếu niên chưa hề biết nhau đồng quỳ đa tạ Hoàng Phi Bằng.
Độ Thiếu đứng thẳng người thưa :
― Thưa đại huynh, tiểu nhân tên Độ Thiếu nghĩa là thiếu ăn thiếu mặc, do người đời đặt cho, sống vô gia cư, căn chòi lá này là gia tài duy nhất của gia gia mẫu thân để lại.
Hoàng Phi Bằng nhân diện Độ Thiếu cố ý che mắt dối người. Chàng đề lòng thầm:– Đúng là loài thú sau này nó sẽ quay lưng lại chăm sóc riêng cho bộ da của nó. Tuy nhận diện được đối phương, nhưng chàng vẫn lấy lễ đối lòng Độ Thiếu, chàng tự nhủ thầm:– Dù đây là cây đèn lu mờ nhưng đến vời mình sẽ sáng .
Chàng cười kín đáo, miệng khen :
― Tuy tiểu đệ không họ, nhưng tên rất có ý nghĩa, hy vọng mai này tên Độ Thiếu đổi thành Độ Sinh.
Đinh Anh Thi kể lại trong sự chết có sự sống của riêng mình cho Hoàng Phi Bằng nghe :
― Thưa đại huynh, lúc tiểu đệ tuyệt vọng nhất, thân thể đã thực sự thả lỏng, chỉ chờ chìm lỉm xuống nước là chết theo dòng sông, bỗng đâu có một luồng khí linh thiêng kéo lên khỏi mặt nước, khi tỉnh lại mới biết đại huynh cứu sống, đó là sự thực nếu không có đại huynh thì không thể còn ai cứu sống được, mạng này còn ở cõi đời, ắt lòng chẳng không bao giờ quên ân công .
Hoàng Phi Bằng thừa hiểu lòng người, khi gặp hoạn nạn thì vái trời xin đất, đến lúc bình an không còn nhớ gì hết, tuy thường đời là vậy nhưng thấy người hoạn nạn thì phải cứu, không chừng trong hai người sẽ có một người tốt, chàng trấn an :
― Tại hạ xin quí đệ quên ơn nghĩa đi, có như thế tình người mới thấy thoải mái hơn, đừng cột mình vào ơn nghĩa sẽ thêm khổ.
Đinh Anh Thi nghe lời dẫn giải rất mới lạ, nghĩ thầm:– Thời nay người đức hạnh hiếm có, còn kẻ độc ác thì đếm quá nhiều, ở nơi nào cũng thấy. Nay vốn mình vô thân thuộc, gia gia thì lưu lạc nơi nào không biết, còn mẫu thân bị hãm hiếp nhưng cự tuyệt đem thân thủ tiết để rồi tự vận, nay mẫu thân đã qua đời, chỉ mình ta thân cô, thế độc mà cũng tránh không khỏi tử thần. May được cứu sống cũng không phải là kẻ thừa thế gian, thôi thì mình tiếp tục sống.
Đinh Anh Thi lấy một hơi dài nén sâu vào lòng bụng, thở ra như để xả hết nổi lòng u uất, chàng nói :
― Thưa đại huynh, tiểu đệ sống như thế này là nhờ người cứu, bây giờ người từ chối thì xem như không còn đất sống, bởi tiểu đệ sống vô gia cư cả năm nay, gia gia bị người ta bách hại không biết lưu lạc phương nào, còn mẫu thân bị người quyền thế hãm hiếp đã tự vận, gia sản bị người cướp sạch, nay tiểu đệ cũng bị người ta trói thả trôi sông, nếu không được theo hầu ân công thì tiểu đệ mượn dòng sông Hồng này làm phương tiện siêu thoát lần thứ hai.
Hoàng Phi Bằng nghe lời nói có chất tính chân thành, không biết phải từ chối bằng cách nào, chàng đành nhận lời kết nghĩa bên đường, nhưng để lòng hậu ý nói :
― Tại hạ năm nay tuổi thập ngũ, tiếp nhận kết nghĩa huynh đệ với Đinh Anh Thi và Độ Thiếu.
Đinh Anh Thi vui mừng quỳ xuống bái một bái. Hoàng Phi Bằng cùng động tác, riêng Độ Thiếu cũng bắt chước những động tác rồi làm theo.
Đinh Anh Thi thay mặt Độ Thiếu thưa :
― Thưa, chúng đệ gặp đại huynh như trời cao mưa thấm đất, được kết nghĩa với người chí khí là phúc họ Đinh và Độ Thiếu, tuy không cha không mẹ nhưng xem đại huynh như quyền huynh thế phụ, nhị tiểu đệ xin một lòng trọn dạ giữ chữ hiếu hiền, không thay đổi hai lòng. Hoàng thiên tại thượng, hoàng thổ tại hạ làm chứng.
Hoàng Phi Bằng nhận thấy có thể Độ Thiếu là kẻ hai long, chàng chấp nhận tương cảnh, chứ không thể tương ái nói :
― Thôi được bây giờ tại hạ đưa nhị hiền đệ về nơi tạm trú, sống với người thân như một gia đình.
Đinh Anh Thi vui mừng xúc động ra nước mắt, không biết nói gì hơn bằng một lạy tạ ơn.
Hoàng Phi Bằng thấy vậy để lòng riêng nói :
― Từ đây về sau nhị hiền Đinh, Độ đệ đừng nói đến tạ ơn nữa, chỉ cần một lần là đủ rồi .
Chàng ra lệnh ba con hạc bay về đông Nam Khê Sơn, chàng cặp bên hông phải Đinh Anh Thi, bên trái Độ Thiếu rồi phi thân biến vào không gian, cả hai không dám mở mắt, gió thổi "vù...vù..." rát da mặt.
Những người canh gác bên ngoài căn nhà lá không hay biết gì về ba thiếu niên biến mất vào lúc nào, họ ngơ ngác tìm không thấy, rồi bỏ đi.
Hoàng Phi Bằng cho biết :
― Tam khắc nữa là đến nơi, chúng ta đi qua hướng Bắc, theo lộ trình này là vào núi.
 Thực ra vào động Nam Khê Sơn đi theo hướng Tây–Bắc, người chưa quen đi trong rừng già đưng nhiên không biết phương hướng, tâm lý người đi theo miễn làm sao đến nơi là an toàn. Hoàng Phi Bằng ngờ vực Độ Thiếu cho nên đề phòng trước, chàng hướng dẫn đi hướng Bắc rồi đổi lộ trình qua hướng Tây–Bắc.
Cả ba huynh đệ Hoàng Phi Bằng về đến động gặp Trần Bình Thành, Đào Phụng Thương, Đào Phụng Hiệp, Đào Phụng Anh, Đào Phụng Châu, Đào Phụng Anh Tuấn, Đào Trần Mẫn Trâm.
Hoàng Phi Bằng kể lại từng chi tiết :
― Trên đường đi về động, tại hạ làm quen hai hiền đệ này đang gặp nạn mới đưa về động.
Chàng giới thiệu Đinh Anh Thi và Độ Thiếu, cả nhà cùng nhau chia xẻ cảnh đời cùng khổ.
Trần Bình Thành đứng trước Hoàng Phi Bằng thưa :
― Thưa sư phụ, đệ tử nghĩ rằng Đinh, Độ sư thúc sẽ là thân nhân trong gia đình mình, còn ngày sau điểm võ học cho Đinh, Độ sư thúc thì không khó.
Hoàng Phi Bằng hiểu tâm tư của Trần Bình Thành, đương nhiên lệnh sư phụ thì phải tuân lệnh, tuy hai thiếu niên này may được sư phụ kết nghĩa cũng có thể tương lai không phải là kẻ tầm thường.
Trần Bình Thành thưa tiếp:– Thưa sư phụ an tâm, mọi việc rồi sẽ tốt, nay Đinh, Độ sư thúc vận dụng hết khả năng luyện tập võ học, hy vọng tương lai quí sư thúc thành tài như lấy vật trong túi áo, võ học ở trong động này do sư phụ truyền thụ thì tất cả xem như đồng môn.
Đinh Anh Thi ngạc nhiên suy nghĩ:– Trần Bình Thành thân cốt to lớn, khỏe mạnh, nói về canh niên cũng hơn đại huynh Hoàng Phi Bằng cả hai giáp, thế mà xưng hô một hai vẫn là sư phụ, sư thúc, trên thực tế võ học của mình có một miếng nào để đáng gọi là sư thúc! Mỗ quá ngại ngùng nhưng không biết phải nói lời nào cho đúng, mỗ chỉ đáng làm đệ tử của đại huynh mà thôi !
Đinh Anh Thi trình bày cảm nghĩ của mình cho tất cả người trong động nghe :
― Thưa Trần đại huynh, tại hạ không biết phải xưng hô như thế nào cho phải đạo nghĩa, vì vốn võ nghiệp và canh niên của tại hạ chưa đủ sức để quét lá động này, vậy xin đại huynh cho tại hạ kết nghĩa cùng quí Đào đệ.
Trần Bình Thành miệng cười trả lời :
― Thưa Đinh sư thúc, quí Đào sư thúc cũng là người trên của đệ tử, ở đây chỉ có đệ tử vai vế nhỏ nhất.
Đinh Anh Thi khó hiểu về giang hồ rồi tự suy:– Chi bằng ở lâu mới biết sự, không cần giải thích, hôm nay đành chấp nhận như thế, rồi nói :
― Thì ra cuộc đời trên giang hồ này có những chuyện bất ngờ không thể biết trước được.
Hoàng Phi Bằng hiểu nổi lòng của Đinh Anh Thi vẫn còn ngơ ngác, chàng ôn tồn :
― Đinh, Độ đệ ở đây không đến nổi phải thiếu thốn, chỉ cần quí hiền đệ luyện tập võ học mỗi ngày, khi ngu huynh trở lại sẽ có nhiều việc để hiền đệ hiểu đời sống ở đây. Hoàng Phi Bằng nói tiếp:– Trần đệ tử chuẩn bị đón tiếp tất cả sư thúc sẽ về đây nay mai.
Trần Bình Thành cúi đầu vâng lời sư phụ, Hoàng Phi Bằng cáo biệt, phi thân biến mất, chàng cùng đại hạc bay về động Lạc Việt, về đến động chàng đi thẳng xuống suối có dòng nước lạnh để lưu tồn mẫu thịt và máu chứa trong chai lấy từ thi thể của Hoàng Hạc, nhằm giữ được lâu ngày. Chàng chuẩn bị thời gian tìm hiểu chất độc, năm ngày miệt mài ôn lại "Dược Giới Lĩnh Nam", chàng khám phá được công thức chế biến và giải độc, tìm được độc liệu cần thiết gồm có: Chín con rết mun, sống trên bảy năm tuổi, lấy vảy bỏ thịt. Mười hai lưỡi rắn rung chuông, sống trên mười hai năm tuổi, lấy lưỡi bỏ thịt. Công thức bào chế: Vảy rết, lưởi rắn, chu bì con đỉa, hắc ngọc đoạn, mã tiền, chu dịch, rượu một phần tư lít nồng độ mạnh, ướp với thủy ngân, chôn dưới dòng nước lạnh, trên một tháng mới công hiệu.
Lấy trái lười ươi chín quết nhừ, vo tròn thành viên nhỏ bằng hạt bắp, bỏ vào hủ chất độc, viên lười ươi sẽ tự động hút chất độc vào, lấy ra phơi khô ba nắng, sau cùng bọc một lớp bột gạo, thế là thành phẩm gọi là "Thiên thu sa". Còn màu sắc của "Thiên thu sa" tùy ở người sử dụng, chỉ cần búng vào đối thủ là lấy được mạng sống, nạn nhân chết như ngủ, lấy độc trị độc chỉ có "Hạc Chu Thảo" mới giải được "Thiên thu sa", những tiên đơn khác đều vô hiệu, thế mới gọi là "Thiên thu" cõi chết vĩnh viễn nghìn năm không ai biết. Hoàng Phi Bằng an tâm tự hứa chính mình tìm thủ phạm ra tay hại tiên tổ.
Thời gian còn lại chàng ra hiệu đại hạc cùng đi về hướng dãy Gia Phong Sơn thuộc thị trấn Chung Du, Giao Chỉ mục đích xem lại địa thế và chuẩn bị sửa lại động. Đến lược về động Lạc Việt chàng và đại hạc ngủ đến chiều, khi thức giấc cho đại hạc dùng bữa, uống nước no nê chuẩn bị đầu thời Dậu lên đường, bỗng từ xa vọng lại tiếng đàn cung thương, giốc, chủy, vũ và âm từ như Hò, xự, xang, xề, cống, liếu. Âm giai rất trẻ đậm nét man mác quê hương thanh tú, mở rộng tâm cảm một nhà Lĩnh Nam, trong ca từ có tiếng gọi về quê cha đất tổ, lời ca mênh mông âm pháp.
Hoàng Phi Bằng cảm xúc, chân bước đến gần tìm hiểu, mới biết chính đôi thiếu niên này là tác giả tấu nhạc khúc, đôi bạn trai gái này xem ra rất tình tự, họ yêu nhau trong tâm tư cùng một hoài bão.
Lần đầu tiên chàng chú ý nghe từng lời ca và âm sắc nhạc, chàng đứng tựa lưng vào gốc cây cổ thụ chiêm ngưỡng rồi tự lòng:– Chính mình đã từng sử dụng âm pháp để thu hút tình người, quả nhiên âm nhạc có chất liệu của tạo hóa, bởi thế mới cảm hóa và thôi thúc được Thiếu Quân.
Nỗi lòng kéo chàng đến gần rồi lấy quyết định:– Mỗ phải kết nghĩa với tâm hồn trong sáng này, chính họ làm cho mỗ chảy theo lòng suối liên miên.
Đôi thiếu niên dừng lời ca, tiếng đàn, cắt đứt hẳn suy tư của Hoàng Phi Bằng.
Chàng nhạc sĩ trẻ ngạc nhiên hỏi :
― Thưa đại huynh, lời và nhạc có khó nghe không ?
Hoàng Phi Bằng hài lòng câu hỏi, rồi trả lời :
― Tại hạ đến đây để chiêm nguỡng âm pháp, nhạc từ, có thể nói trong bản nhạc này ẩn hiện tình tự tôn tộc Bách Việt, chính âm hưởng này thôi thúc tại hạ đến với núi sông. Tại hạ mạo muội muốn kết thân cùng nhị vị có được không ?
Người nhạc sĩ trẻ suy nghĩ, quả thực tiếng nhạc, lời ca, đi tìm tương đắc, tương tư. Âm nhạc đến với mỗi người qua tư duy, đây là lần đầu tiên có một gã qua đường cảm nhận được mình với Lệ Thanh, cũng là đồng tâm huyết đến với nhau, chàng nhạc trẻ thưa :
― Thưa đại huynh, tại hạ sáng tác hôm qua một tác phẩm mới, xin mời muội Lệ Thanh trình bày ca khúc "Quê Hương Ta Đó" tặng đại huynh vào buổi sơ giao :
Bầu trời quê ta nắng ấm sáng tươi
Tiếng hát líu lo chim gọi yêu cuc đời
Cuc tình hôm nay thêm vui tiếng cười
Và người yêu dấu cùng ta chung với người
Quê hương đó người tình đó
Và đất nước làng quê đây luỹ tre
Đây gió núi trăng bên suối
Ngồi vây quanh lửa ấm quê hương
Cười rn ràng chung vai vang tiếng ca
Sánh bước bước đi quên là kiếp tha hương
Đời vì mai sau vươn lên với người
Dù đời vẫn khó lòng ta không bước lui
Nhịp đập hôm nay tim ta réo vang
Cất tiếng hát ca vang rn xóm thôn làng
Kìa người phương xa chân bước ngút ngàn
Về quê hương có mẹ cha vui với người.

Chàng nhạc sĩ cao hứng hỏi :
― Đại huynh nghe ca khúc này thế nào ?
Hoàng Phi Bằng đắc ý, cười rồi đáp :
― Về nhạc phổ tại hạ chỉ hiểu phần nhỏ, khi nghe thường chú ý nhạc và lời có quấn quít vào nhau không, chính ở điểm này chuyên chở được ý của tác giả, còn ca từ nữa nó đậm âm sắc hay không chỉ một từ thêm hay bớt là đủ trở thành ca khúc lưu danh.
Đôi bạn nghệ sĩ, tương lai sáng ngời khó lường trước, có cái thế cao thổ, hoài bảo lớn của anh hùng, đố ai biết được là hào kiệt chứa biết bao hận thù đã qua trải. Quí hữu nắm sức mạnh của âm nhạc làm ý nguyện dâng hiến cuộc đời cho dân tộc, đó là âm nhạc không gian sống thực, nhưng cũng có kẻ tầm thường lợi dụng âm nhạc tưởng tượng, rồi vẻ vào tim một chân dung đẹp, bởi thế mới có loại âm nhạc bả đậu !
Nói về nhạc khúc Quê Hương Ta Đó, trong âm sắc có gió lùa vào suy tư, trọng tình không trọng âm, trọng nghĩa không trọng khúc, âm điệu liên miên bất tận, như nước chảy không ngừng, âm chính và phụ âm không cách, không sai một khoản cung bật nào, thủ pháp hòa một, ngũ âm hiệp nhất, tùy ý đáo cung đàn.
Còn ca từ giống như một bức tranh cố hương rất đẹp, có đồng nội hương thơm thanh bình, một quê hương tình yêu hạnh phúc, nói lên chí khí làm trai thời loạn, bốn bề náo động cờ bay phất phới, hứa ngày về xây dựng quê hương, đúng là một khúc nhạc hay bao la vạn trượng.
Lệ Thanh thấy Hoàng Phi Bằng giải thích âm nhạc rất là lưu loát, luận âm nhạc không sai, nhân cao hứng nàng hỏi :
― Thưa đại huynh có biết cây đàn tranh này ( ba mươi chín dây cung ) truyền thuyết thế nào không ạ ?
― Tại hạ chưa đọc qua cuốn phổ nào nói về truyền thuyết của cây đàn này !
Lệ Thanh vốn sống trong gia đình doanh gia nhạc cụ và đã học qua âm nhạc với các danh sư, cho nên luận về âm nhạc nhất là nhạc cụ, nàng đứng đầu nữ giới, nàng nói :
― Thưa Hoàng huynh, đàn tranh này có vào thời Thuấn. Xưa kia gia đình nọ có hai chị em gái thích âm nhạc, nhưng trong nhà chỉ có một cây đàn tranh ( ba mươi chín dây cung ) rồi một ngày, hai chị em dành giật cây đàn đó để chơi riêng, họ không chịu nhường nhịn nhau. Mỗi người giật qua đẩy lại, kéo tới kéo lui, kết quả cây đàn đứt ra làm hai đoạn, người chị được đoạn ( mười ba dây cung ) người em được đoạn ( mười sáu dây cung ).
Từ đó thế giang có thêm hai nhạc khí đàn tranh mới. Mười sáu dây cung và ba mười dây cung.
Hoàng Phi Bằng khen :
― Muội Lệ Thanh thông thái lắm, nhờ ngày xưa có hai chị em nhà nọ, mà thế giang ngày nay có đến ba loại đàn tranh, đương nhiên mỗi loại có âm sắc tuyệt hảo của nó, truyền thuyết đàn tranh được ghi vào sử âm nhạc thời Thuấn lưu mãi đến nay. Cảm ơn kiến thức của muội cho huynh mở rộng tầm mắt, do đó sách có câu: "Đi một quãng đàng học một sàng khôn" .
Xuân Giao hướng đôi mắt lên nhìn Hoàng Phi Bằng, đắc ý đứng lên cười "ha hà" :
― Đúng là tri kỷ, chúng tại hạ xin kết nghĩa với đại huynh nhá ?
Hoàng Phi Bằng cảm thấy lòng rộn ràng tự hỏi:–Xưa nay mình thường kết nghĩa trong giới võ học, hôm nay quả là một thú vị, lấy thi ca kết nghĩa võ học cũng là một việc nên làm nói :
― Tri kỷ kết nghĩa tri kỷ, tốt lắm âm nhạc cũng là một võ học, nếu biết sử dụng sẽ cho chúng ta những chiêu thức tuyệt kỷ. Tại hạ họ Hoàng tên Phi Bằng còn bách nhật đúng mười bảy canh, người Lạc Việt, hiện sống Cửu Chân đồng ý kết nghĩa với huynh, tỷ.
Hai người nhạc sĩ trẻ không ngần ngại cũng giới thiệu :
― Tại hạ họ Xuân tên Giao mười sáu canh dư bách nhật. Muội họ Lệ tên Thanh mười sáu canh tròn, quê quán Thanh Mai thuộc tỉnh Trường Sa.
Hôm nay được kết nghĩa với đại huynh cũng là một vinh dự lớn.
Hoàng Phi Bằng ngỏ lời mời Xuân và Lệ về núi Nam Khê Sơn :
― Nhân dịp này ngu huynh muốn mời Xuân đệ, Lệ muội về Nam Khê Sơn cùng chung luận âm nhạc và võ học nhé ?
Xuân Giao chấp thuận :
― Thưa đại huynh nơi nào có anh hùng trừ gian diệt bạo, cứu nhân, độ khó thì nơi đó có đệ và Lệ muội.
Hoàng Phi Bằng cười nói :
― Tốt lắm huynh đệ cùng thực hiện tam Thi nhé như thi Việt đạo, thi Ân đức, thi Cứu nhân.
Chính trong nhạc cũng có tam Thi, Nhân khí anh hùng xuất hiện, Tâm khí lộ diện thi ca, Đức khí không bỏ nhân tình. Hoàng Phi nói tiếp:– Huynh mời đệ, muội đến cây cổ thụ ngoài kia rồi cùng về Nam Khê Sơn.
Cả ba lên đường bằng đại hạc, Xuân, Lệ lần đầu tiên được cưỡi đại hạc, trong lòng phơi phới, tay nghe gió thổi vi vu, nhạc trong gió, tiếng ca trong mây.
Trên không gian Hoàng Phi Bằng cất lên khúc Lĩnh Nam Ca có ý tặng Xuân đệ, Lệ muội. Lời ca vừa chấm dứt, đại hạc đã bay xuống động Nam Khê Sơn.
Cùng lúc Xuân Giao hỏi :
― Thưa đại huynh, đệ cùng Lệ muội tâm đắc ca khúc Lĩnh Nam Ca. Đúng như khí hùng ca, một liều thuốc thúc đẩy mỗi cuộc sống vươn lên.
Xuân, Lệ không ngờ ở rừng núi mà cũng có người bạn đường yêu âm nhạc, lòng cảm kích vô cùng. Vào đến động tất cả thập lục tú đón chào hai bằng hữu mới đến.
Hoàng Phi Bằng giới thiệu Xuân, Lệ cho huynh đệ trong động cùng nhau kết nghĩa :
― Quí vị thân mến từ hôm nay trong động Nam Khê Sơn có nhị thập nhất tú nhân, tại hạ xin giới thiệu thứ tự huynh tỳ đệ muội như sau. Đại huynh Trịnh Đình Thông trưởng nam của cô trượng Trịnh Đình Thao, tỷ tỷ Hoàng Lữ Thư, Hoàng Phi Bằng, Chu Thông, Chu Thiện, Chu Hào, Xuân Giao, Lệ Thanh. Đinh Anh Thi, Đào Phụng Thương, Đào Phụng Hiệp, Đào Phụng Anh, Đào Phụng Châu, Độ Thiếu, riêng Đào Phụng Anh Tuấn, Đào Trần Mẫn Trâm gọi tại hạ là nghĩa phụ, đặc biệt còn bốn huynh tỷ đệ muội còn ở ngoài động chưa về đây, sẽ giới thiệu sau.
Hiện nay trong động có người đã gặp và chưa hề biết tên họ của bốn người ở ngoài động đang sống ở đâu, như Lý Bình Trung, Trần Kiều Oanh, Trịnh Trường, Quách Tuyết Băng.
Hoàng Phi Bằng nhờ đệ tử Trần Bình Thành đến Thương Nhân Bang trao giản biên cho tổ phụ Đào–Trần.
Nội dung:– Kính gửi tổ phụ. Phi Bằng nhi xin sử dụng động Nam Khê Sơn làm nơi sinh sống cho nhị thập nhất tú, hy vọng tổ phụ đồng ý.
Ký tên Hoàng Phi Bằng.
Trần Bình Thành nhận tiếp giản biên của Thương Nhân Bang của Đào–Trần phúc đáp:– Phi Bằng nhi mến. Tổ phụ đã tiếp nhận giản biên vội hồi âm đến hiền nhi. Tổ phụ quyết định tặng hiền nhi động Nam Khê Sơn. Kể từ đây và mãi mãi hiền nhi làm chủ quyền động, chúc sức khỏe quí thiếu hiệp.
Ký tên Đào–Trần.

Ngày tháng trôi qua Tam Thanh Kiếm vẫn chưa rút ra khỏi vỏ để phát huy khả năng của nó. Nhân dịp Hoàng Phi Bằng về thành Phiên Ngung, một hôm Trịnh Trường hỏi :
― Thưa đại huynh, đệ lo mãi việc ngoài đời quên lửng, nay xin đại huynh cho phép "Tam Thanh Kiếm" xuất hiện.
Hoàng Phi Bằng nhớ lại liền đáp :
― Như thế Lý đại huynh, Trịnh đệ chuẩn bị thế nào để làm lễ tái xuất "Tam Thanh Kiếm"
Lý Bình Trung không ngại đề nghị thẳng với Hoàng Phi Bằng :
― Mời Hoàng đệ tiếp nhận "Ngọc Thanh kiếm".
Hoàng Phi Bằng cười nói :
― Sao Lý huynh, Trịnh đệ không lựa người khác để trao "Ngọc Thanh kiếm".
Trịnh Trường xét thấy không có ai đủ khả năng tiếp nhận "Ngọc Thanh kiếm" ngoài Hoàng Phi Bằng nói :
― Thưa Hoàng đại huynh, tuy đã có nhị thập nhất tú nhân, nhưng không ai có khả năng để trao "Ngọc Thanh kiếm" cả.
Hoàng Phi Bằng cười ồ, rồi nói :
― Trịnh đệ nói vậy là chưa am tường trong nội bộ, hiện nay có người có thể trao được "Ngọc Thanh kiếm" khi vào tay người nào thì người ấy phải tự xét mình để thi hành, vã lại một khi đã kết nghĩa huynh đệ rồi thì đừng coi thường lẫn nhau, mình phải tôn trọng tất cả.
Lý Bình Trung ái ngại trao kiếm cho người khác, hai nữa chính "Ngọc Thanh kiếm" do Hoàng Phi Bằng lấy về, nay không tiếp nhận thì phải có nhân vật thứ tư nói :
― Hoàng hiền đệ, Trịnh đệ theo ngu huynh suy nghĩ "Ngọc Thanh kiếm" nên trao cho tỷ tỷ Hoàng Lữ Thư là hay nhất.
Trịnh Trường chưa hề có ý nghĩ trao kiếm cho Hoàng Lữu Thư vì rất ái ngại nói :
― Trao kiếm cho tỷ tỷ Lữ Thư thì đệ không an tâm vì ngại tính tình ngạnh bướng, lỡ mà đi ngược lại thì khác nào La Đức sống lại, thế là chết cả đám.
Lý Bình Trung hiểu được ý của Trịnh Trường cười "há hà" :
― Theo ngu huynh thấy tỷ tỷ tính tình có nghịch ngợm, nhưng trong nghịch chứa đựng tình thương, nghịch của lý trí nhân đạo, chứ không phải nghịch ác như La Đức, Trịnh hiền đệ ở trong nhà mà không biết tính của tỷ tỷ như thế nào hay sao ?
Trịnh Trường "ồ..." thì ra là thế, đáp :
― Ngu đệ vì lo ngại quá cho nên bị che lý trí không hiểu thấu, nhờ hiền huynh giải thích mới tỏ tường, đa tạ đại huynh.
Lý Bình Trung xoay qua hỏi Hoàng Phi Bằng :
― Hoàng hiền đệ làm lễ bái kiếm ở đây được không ?
Hoàng Phi Bằng nói đùa :
― Cuối cùng rồi cũng nhận bà la sát tiếp "Ngọc Thanh kiếm" huynh đệ không sợ bà ấy ư ?
Trịnh Trường, Lý Bình Trung đồng cười :
― Kiếm đã chọn mặt gửi vàng, thì chúng ngu huynh đệ không còn sợ gí nữa vì ngày trước không có ai trị được La Đức, còn ngày nay có Hoàng đại huynh trị nghịch kiếm, mười bà la sát chúng đệ cũng há sợ hay sao.
Hoàng Phi Bằng cười "hà hà" lên tiếng :
― Cuối cùng rồi cũng đem mỗ ra làm nhân chứng, thôi được hẹn ba ngày nữa quí vị theo mỗ lên động Gia Phong Sơn để làm lễ bái kiếm, nhưng phải hỏi ý của tỷ tỷ trước rồi mới hành lễ. Còn về sinh hoạt ở động Nam Khê Sơn do tỷ tỷ Lữ Thư chưởng quản, còn kinh doanh Phiên Ngung thành do Lý huynh, Trần Tỷ, Trịnh đệ và muội Quách Tuyết Băng chưởng quản.
Truyền tin này lại cho tỷ Lữ Thư bảo từ nay mọi người trong động phải ra sức luyện tập mỗi ngày, xuất hết năng lực đạt đến trăm thành nội ngoại công lực, bảy ngày sau tại hạ trở lại, kiểm tra năng lực, xin chào tạm biệt.
Hoàng Phi Bằng phi thân lên đại hạc bay thẳng hướng Nam, về động Lạc Việt chàng sống với bầy đại hạc, nghiên cứu bộ võ học trên ngũ giác đài, chàng trầm mặc với sơn động, thường đời không quấy nhiễu, tinh thần thoải mái, thời gian rảnh tập luyện tiếp "Bát Quái Lĩnh Nam" chỉ trong một ngày là đã hoàn tất bộ võ học mới, bộ pháp của chàng nay tinh diệu hơn trước.
Bảy mươi hai chiêu thức vừa luyện tập hoàn chỉnh chàng ứng dụng ngay, chân xoay nhẹ xuất bộ pháp, phi thân ra khỏi động, nhân tiện kiểm tra lại nội ngoại lực. Chân chàng vừa đáp xuống đất là xuất Nhất chiêu "Thủy sơn kiển" chiêu thức này vị trí của Khảm hiểm trở trong Cấn dưới là nước và núi, tính của núi là đậu, núi cao chặn đường tiến thủ, dưới chân là vực sâu. Chàng nhận ra mọi vật dừng lại không thể tiến đến gần chàng.
Chàng xuất Nhị "Bát thuần cấn" chiêu Càn là đậu dừng lại, Cấn trên Cấn dưới, mỗi Cấn là dương đậu một âm, một dương là vật động tiến tới tột đỉnh thì dừng, âm là im lặng như cõi hồng hoang, với nội lực của chàng đứng trước động tĩnh của không gian, tùy ý phát huy theo hoàn cảnh.
Tam "Địa sơn khiêm" chiêu khiêm Tốn, Khôn là đất, Cấn là núi trong đất có núi, chịu hạ mình ở với đất nhờ thế mọi sự hành thông vô bờ. Chiêu thức này tuôn ra như nước chảy, địch thủ sẽ bị chôn vùi thân xác dưới đất.
Tứ "Thiên địa bỉ" chiêu bế tắc lập Kiền, Khôn dưới ánh sáng, đất dưới trời cao, trời đất chia rẽ không liền nhau gọi là bĩ trái với thái, địch thủ trúng chiêu này thân thể tan tác.
Ngũ "Trạch địa tụy" chiêu kết kợp, hi tụ Đoài là đầm, hồ nước với Khôn là đất, đầm là nơi tụ của nước, tượng trương cho sự hợp. Địch thủ tiếp nhận chiêu thức này nội tạng phân rã nhiều đoạn.
Lục "Hỏa địa tấn" Ly-Khôn mặt trời càng sáng càng phát huy. Còn gọi là chiêu "Tiên bồ", khi xuất chiêu đôi tay phát ra ánh sáng với sức nóng có nhiệt độ đốt chảy thân cây cổ thụ.
Thất "Thủy địa tỷ" chiêu gần gũi thân thiết Khảm-Khôn nước đất không thể cách ngăn, kết liên làm một. Chiêu thức hóa thành nước và đất tấn công địch thủ, kết quả địch thủ như tôm lăn bột.
Bát "Lôi địa dư" chiêu yên hòa, sấm động với đất, sấm xuất từ đất khí dương giao hòa khai phát. Chiêu thức xuất ra từ dưới đất đi lên, nổi sấm sét giận dữ địch thủ khó tránh, thể xác cháy như cây đuốc rơm.
Cửu chiêu "Sơn địa bắc" trên núi dưới đất, bích núi cao lấy đất làm điểm đứng, bám đỉnh cao để không suy rụng của đất. Chiêu xuất lấy lộc địch thủ.
Thập "Phong địa quan" xuất khí minh quan, xét quán tồn gió dưới đất đi vào khắp muôn sự muôn vật. Hai tay xuất chiêu gió lồng lộng từ đất đánh vào địch bay trên không trung.
Thập nhất "Bát thuần khôn" đất hợp lại che chở trung giới và trời, tạo ra mọi hiểm trở. Chiêu này địch thủ đứng trên pháp trướng chờ xử trảm.
Thập nhị "Địa lôi phục" sấm sét trở về đầm nước, thịnh đã đến chỗ cùng cực khí dương bắt đầu ló ra áng sáng, áng sáng trởi lại. Chỉ xuất một chiêu khiến địch thủ phải qui phục, vì chiêu số biến hóa khôn lường.
Thập tam "Sơn lôi di" nuôi sấm dưới chân núi tịnh động nương nhau mà sinh ra muôn pháp. Hai tay tạo ra sấm sét lấy không gian làm vũ khí, địch thủ sẽ bị gió giục mây vần chết trong lạnh lẽo.
Thập tứ "Thủy lôi truân" đẩy vật mới sinh vào khó sống, dò hiểm dưới nước, mưa và sấm đầy trời, qua cơn mọi vật bình thường. Chiêu thức này phá trận chiến thành bình địa .
Thập ngũ "Phong lôi ích" chiêu tăng trưởng trên dưới gió sấm càng lớn bổ túc cho nhau. Nội lực phi thường tạo ra sức mạnh của gió, dịch thủ trở thành con bông vụ.
Thập lục "Bất thuần chấn" dương âm phát động khôn lương, dương động mãnh liệt. Chiêu xuất âm dương, dịch thủ kinh sợ vì bị phế nội lực.
Thập thất "Hỏa lôi phệ hạp" hợp tinh khí thần hóa lửa, sánh sáng chớp đánh tan những sự ngăn cách căng thẳng của trời đất. Xuất chiêu này miệng bặm môi, răng cắn lại để ngăn cách hỏa trong thân thể, chỉ dùng hai tay hợp khí thiên nhiên, đánh vào địch thủ sẽ bị tan tành thể xác.
Thập bát "Trạch lôi thủy" sấm động trong đầm, chuyển theo ý đng thủ. Chiêu xuất chấn động lục phủ ngũ tạng địch thủ phát điên chết từ từ.
Thập cửu "Thiên lôi vô võng" trên dưới phân thành lưới trời, chuyển động theo lẽ trời sáng tạo, tự nhiên không gì cản trở, phóng tâm không còn quấy phá, không tự dục, tư kỷ khí. Chiêu cõi giới thượng thừa, chưa xuất chiêu mà làm cho địch thủ phải bỏ chạy.
Nhị thập "Địa hỏa minh di" kết Tổn trời đất sáng, lửa rơi vào đất sinh ra tối tăm, kẻ hôn mê khiến cho sáng. Chiêu thức cứu người.
Nhị thập nhất "Sơn hỏa bí" cửa nê hoàng cung chuyển khí dương, làm lửa sinh từ lòng đất huyền nhiệm, ánh sáng hỏa chiếu núi non trời đất. Chiêu này lửa sinh từ lòng đất, thân thể vận động hỏa cháy thiêu hủy mọi vật .
Nhị thập nhị "Thủy hỏa ký tế" mọi sự đã xong, từ hổn mang biến thành trật tự, mọi vật ở đúng chỗ và biến không nguy hiểm. Chiêu thức này rất lợi trong trận chiến, đả thương địch nhưng không làm địch tử thương, phương pháp cầu hòa.
Nhị thập tam "Phong hỏa gia nhân" Tốn tượng theo phong, phong từ hỏa sinh ra, hỏa mạnh thì phong sinh. Chiêu thức xuất phong hỏa đồng sinh, đốt cháy mọi vật thể.
Nhị thập tứ "Lôi hỏa phong" sự lớn nhỏ ánh sáng nhờ thịnh suy của lửa. Thu nhỏ nội lực hay xuất chiêu mạnh mẽ tùy nghi đối phó trước địch thủ.
Nhị thập ngũ "Bất thuần ly" hãm vào chỗ hiểm nạn và giải tỏa hay bám vào, thấy trống không mà nùi lực phi phàm. Dẫn dụ địch thủ bám chặt không rời, xuất chiêu quần địch như mùt quả tròn rơi vào lỗ đánh đáo.
Nhị thập lục "Trạch hỏa cách" biến đổi từng thời gian mùt, lấy lửa nấu nước cạn, tạo ra nước lửa khắc chế và ngược lại. Chiêu thức khi xuất có khả năng đốt cháy thành tro bụi và thành cây nước đá lạnh dưới tam thập độ âm.
Nhị thập thất "Thiên hỏa đồng nhân" lửa người lửa trời bốc lên đồng nhau, tạo ra thể cân đối. Chiêu mựng lửa trời thiêu hủy địch.
Nhị thập bát "Địa trạch lâm" tiến sát tới, chứa chấp bao dung, trên đầm có đất, bờ giáp với nước, đầm trong rừng. Tạm dung địch thủ, dù có sát phụ chi thù.
Nhị thập cửu "Sơn trạch tổn" bớt những thiệt hại, núi cao thì đầm sâu, đầm ở dưới núi khí thông lên nhuần với cỏ cây vật. Nương chiêu không hại địch thủ.
Tam thập "Thủy trạch tiết" chừng mực, tiết độ hạn chế, khôn dò hiểm trở, tự mình biết chứa nước vào đầm. Vị tha không hại địch, dẩu cho đất thổ cũng chi hận.
Tam thập nhất "Phong trạch trung phu" báo tin trong long, phong đi trên đằm, sinh ra mọi biến hiện. Cảnh cáo địch thủ, nếu địch thủ cố chấp chiêu thức tự nhiên phản công như rồng hút nước dưới hồ, đến lúc phải ân đoạn nghĩa tuyệt.
Tam thập nhị "Lôi trạch qui mui" sấm dậy đằm động, theo nhau như đôi âm dương. Chiêu xuất thân chính không ngại mây khuất, bảo gió nghiêng thành.
Đến đây chàng dừng lại, hẹn ngày sau tập luyệt tiếp ba mươi mốt chiêu còn lại, lòng vui mừng đã đạt được kết quả, chiêu số biến đổi khôn lường, còn theo ý của riêng mình để phát huy võ học, đúng là võ học "Bát Quái Lĩnh Nam", có nói "Vươn chiêu số sung mãn vô tận". Chàng xem lại thì thấy cảnh vật tứ hướng như cây cỏ đất đá ngổn ngang hóa thành bình địa.
Huỳnh Tâm 
Kho Tàng Việt Vương, tất cả 10 chương.
Đọc tiếp chương 8.
Lòng người mở ra ắc thông, bằng không sẽ ngẹt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét